Hội luận ngày 12 tháng 4 năm 2009 tại Westminster Civic Center, Westminster, CA
Việc khai thác quặng bauxite và Âm mưu tiến chiếm Việt Nam của Trung Cộng
Cùng Quý Đoàn thể chính trị, Quý Hội Đoàn, ,
Thưa Quý Quan Khách,
Gần hai tháng nay, câu chuyện Bauxite bắt đầu nở rộ từ trong nước và ra hải ngoại. Dự án khai thác quặng bauxite do chính Thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng ký sắc lịnh số 167 ngày 1/11/2007 và đã bắt đầu khởi công từ đầu năm 2008 ở công trường Bảo Lâm (Bảo Lộc) và giữa năm 2008 ở công trường Nhân Cơ, Đắknông, nhưng chỉ chính thức công bố vào đầu năm 2009 mà thôi. Mặc dù có biết bao góp ý từ những nhà chuyên môn trong nước và hải ngoại, cùng kinh nghiệm của những quốc gia đang khai thác như Liên bang Nga, Nam Mỹ, Phi Châu, Trung Cộng và Úc Châu. Từ đó đến nay, người Việt tại hải ngoại góp ý nhiều bài viết trên báo chí, trên mạng lưới toàn cầu cũng như trên đủ loại truyền thông khác như paltalk, truyền hình, truyền thanh của những nhà chuyên môn, ký giả và những người còn lưu tâm đến Đất và Nước Việt Nam về vấn đề nầy.
Có thể nói, tất cả góp ý về việc khai thác quặng mõ bauxite ở vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam là một việc làm hoàn toàn không ứng hợp với việc bảo vệ môi trường cùng hiệu quả kinh tế của việc khai thác, cũng như ảnh hưởng đến đời sống người dân, đặc biệt là những người thiểu số. Tất cả đểu khuyến cáo là không hiệu quả kinh tế và mức độ ô nhiễm môi trường rất cao. Chính Trung Cộng bị buộc phải đóng cửa trên 100 nhà máy khai thác bauxite trong đó có một nhà máy vừa mới khánh thành tiêu tốn trên 1 tỷ Nhân dân tệ vì không giải quyết được áp lực của người dân và sức ép của luật môi trường.
Nhìn xa hơn nữa, việc ảnh hưởng sâu xa về sự toàn vẹn lãnh thổ cũng được phân tích cặn kẽ qua việc giao khoán cho Trung Cộng toàn quyền khai thác mà những người quản lý đất nước hiện tại chấp nhận qua bản Thông cáo chung đã ký ngày 3/12/2001 giữa Nông Đức Mạnh và Trung Cộng trong một trích đoạn dưới đây:" Hai bên tích cực ủng hộ và thúc đẩy các doanh nghiệp của hai nước hợp tác lâu dài cùng có lợi trong các lãnh vực cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế biến, phát triển nguồn nhân lực, năng lượng, chế biến khoáng sản và các lãnh vực quan trọng khác. Hai bên cùng tăng cường hợp tác trong các dự án như Bauxite Đắk Nông, trong các dự án khuôn khổ hành lang một vành đai kinh tế". Cũng chính Nông Đức Mạnh trong một Thông cáo chung khác ký với TC vào tháng 12/2008 là:" đã có hang trăm công nhân TC ở hiện trường để đẩy nhanh tiến độ dự án".
Để tìm hiểu thêm về vấn đề nầy, để tìm một sự đồng thuận của người Việt hải ngoại trước một vấn nạn có thể mang lại sự mất còn của Việt Nam, chúng tôi, thừa uỷ nhiệm của Đại Việt Quốc Dân Đảng, xin chia sẻ với Quý vị về sự kiện hiện đang diễn ra trên đất nước chúng ta.
Khai thác quặng mõ bauxite nhìn về khía cạnh kỹ thuật và môi trường
Quặng bauxite là một loại quặng lộ thiên, nghĩa là quặng mõ nằm dưới lớp đất thịt (đất đỏ bazan ở vùng Cao nguyên) dày khoảng từ 8 tấc đến 2 mét tùy theo vùng đất, nghĩa là chúng ta có thể khai thác thẳng quặng từ mặt đất chứ không cần phải đào đường hầm như khai thác mỏ than hay các quặng kim loại khác. Quy trình khai thác gồm có hai giai đoạn:
· Đào xới, xử lý cơ học và hoá học để tách rời oxid nhôm (Al2O3);
· Tinh chế nhôm ròng bằng phương pháp điện phân.
Giai đoạn đầu là đào xới các quặng mỏ. Dĩ nhiên trong quặng mỏ đó có trộn đất đá và một số kim loại độc hại lẫn trong quặng bauxite, do đó cần phải tách rời ra bằng các phương pháp cơ học và hoá học, nghĩa là tẩy rửa bằng nước và bằng sút để ra quặng alumina. Alumina là một hợp chất oxid của nhôm (Al2O3). Còn lại chất phế thải là bùn đỏ trộn lẫn với sút và nước chúng ta gọi là một chất bẩn độc hại âm thầm gồm các hoá chất độc hại như sau: các oxid sắt, nhôm ngậm nước, silic, natri, calci, titan, chrome, kẽm, và một số hoá chất hữu cơ. Giai đoạn nầy chỉ đòi hỏi những nhu cầu dụng cụ đào xới, máy nghiền, máy rữa ….và nhân công cũng không đòi hỏi có trình độ cao.
Giai đoạn thứ hai thực sự ra quan trọng hơn, vì từ alumina người ta phải sử dụng điện phân để tách ra nhôm ròng. Đây là giai đoạn quan trọng nhứt vì nó đòi hỏi công nghệ cao cũng như cơ sở sản xuất trích ly điện phân rất cao.
Ô nhiễm môi trường
Ô nhiễm không khí: Nói về vấn nạn ô nhiễm do khai thác quặng mỏ lộ thiên thì vấn đề bụi là trở ngại đầu tiên chúng ta đặt ra. Bụi ở đây không phải là bụi nằm trong vùng khai thác mà bụi đó sẽ che phủ toàn vùng kể cả khu dân cư và khu nông nghiệp chung quanh. Những bụi đỏ đó sẽ bám trên lá cây trồng trọt trong nông nghiệp trong suốt thời gian khai thác và sau đó, do đó cây trồng không thể phát triển bình thường được.
Đối với con người, theo quy định của cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ thì bụi trong không khí phải có đường kính dưới 10 micro (PM10). Khi bụi đó đi vào đường khí quản và vào trong phổi trong một thời gian dài, người bị tiếp nhiễm sẽ có nguy cơ đưa đến ung thư phổi. Qua kinh nghiệm ở những vùng khai thác mỏ than ở các quốc gia bên Tây Phương người ta thấy tình trạng ung thư phổi vì bụi rất cao. Thành phần hoá học của bụi đỏ, ngoài các hoá chất độc hại có trong bùn đỏ, còn có một số chất phóng xạ thiên nhiên có trong các quặng mõ như các tia Radium, Thorium, bà beryllium… có thể gây ra ung thư đường hô hấp.
Thêm nữa, cũng cần lưu ý đến mưa acid trong vùng khai thác vì không khí đã bị ô nhiễm khí sulfurơ phát thải ra trong giai đoạn khai thác. Mưa acid là nguyên nhân đưa đến tai hoạ cho cây trồng nhiều nhất.
Ô nhiễm nguồn nước: Khi đào sới thì lớp đất thịt ở trên mặt sẽ không còn nữa và bùn đỏ có trộn lẫn hóa chất như sút và một số kim loại độc hại kể trên sẽ chiếm một diện tích rất lớn trong việc khai thác. Người ta ước tính muốn khai thác một hecta quặng bauxite thì sẽ phát sinh ra một hecta bùn đỏ, và qua thời gian, qua mưa bão thì bùn đỏ có thể xâm nhập vào nguồn nước ngầm và làm cho nguồn nước nầy bị ô nhiễm. Nên nhớ, nước ngầm là nguồn nước sinh hoạt của toàn thể cư dân vùng cao nguyên. Thứ nữa, bùn đỏ, đặc biệt là tại vùng Đắk Nông và Nhân Cơ, qua thời gian và mưa có thể di chuyển theo các rạch nước để đi vào song Serépôk và di chuyển xuống thượng nguồn sông Đồng Nai. Và như chúng ta đã biết, sông Đồng Nai là nguồn nước cung cấp cho toàn vùng Miền Đông Nam Việt và đặc biệt là thành phồ Sài Gòn.
Đó là những nguy cơ rất quan trọng, tức là nguy cơ về không khí và nguy cơ về nguồn nước cung cấp cho 30 triệu cư dân bao gồm nước sinh hoạt và nước ngầm ảnh hưởng đến trên.
Ảnh hưởng lên con người: Qua sự hiện diện của nhôm trong nước hay trong tôm cá trong vùng khai thác sống trong nguồn nước đã bị ô nhiễm, con người có nguy cơ ảnh hưởng lên sức khoẻ qua việc ăn uống hay sử dụng nguồn nước trên. Việc nầy đã được giới y khoa chứng minh là việc tiếp nhiễm có thể đưa đến: mô não bị huỷ hoại (encelopathy), bị loãng xương, thiếu máu, và có thể bị chứng Parkinson. Còn đối với đời sống tôm cá trong vùng bị ô nhiễm, chúng sẽ bị tiêu diệt lần lần và có thể bị tiệt chủng.
Theo một số nghiên cứu của các nhà khoa học Ý và Hoa Kỳ, bùn đỏ khi chảy ra biển có thể gây ra dị thai của tôm cá biển. Một nhà khoa học người Úc cũng đã khám phá là bụi đỏ cũng có thể gây ra ung thư phổi và làm biến dạng tử cung qua việc thử nghiệm lên chuột.
Nói chung, triệu chứng thông thường ảnh hưởng lên đời sống của người dân sống chung quanh vùng khai thác quặng mõ là cảm thầy khó chịu, bị chóng mặt, buồn nôn. Nếu bị tiếp nhiễm lâu dài có thể bị ngất xỉu bất cứ lúc nào và có thể đi đến hôn mê.
Còn đối với sodium hydroxide (còn gọi là xút) NaOH, hoá chất nầy được OSHA Hoa Kỳ ghi nhận là có nguy cơ gây ra ung thư cho người khi bị tiếp nhiễm dài hạn trên 15 năm. Nếu bị tiếp nhiễm trực tiếp, có thể bị ngứa da, lở loét miệng, cổ và thực quản. Hay hơn nữa, ảnh hưởng cấp t1inh có thể làm viêm mũi và cuống họng v.v…
Hiệu quả kinh tế: Chúng ta hãy cùng nhau làm những phép tính sau đây. Tuỳ theo nồng độ của nhôm trong quặng mõ, nhưng căn cứ theo kinh nghiệm của các quốc gia, trung bình khi khai thác 4 tấn quặng thì có được 2 tấn oxid nhôm và phát thải 4 tấn bùn đỏ trộn lẫn với nước. Và sau khi điện phân sẽ có được 1 tấn nhôm ròng (99,9% tinh khiết).
Nếu thực hiện đúng theo dự án là khai thác 1,2 triệu tấn nhôm ròng hàng năm, chúng ta có thể hình dung được diện tích đất đai bị khai thác và diện tích cần phải có để chứa bùn đỏ phế thải…có thể chiếm đến hàng chục ngàn hecta hàng năm!
Trước mắt, trong giai đoạn đầu khai thác, TC chỉ có thể sản xuất ra oxid nhôm mà thôi và sản phẩm nầy có trị giá kinh tế trên thế giới hiện nay (2008) là $300/tấn. Trong lúc đó, nếu dùng nguồn đất trên để sản xuất cây công nghiệp như trà, cà phê, tiêu, cao su v.v. thì thu hoạch cho mỗi hecta có thể đạt hơn $1.000/hecta. Như vậy, chúng ta thấy rõ ràng là hiệu quả kinh tế của việc khai thác bauxite là không đáng kể so với việc trồng cây công nghiệp, và chưa nói đến mức di hại về sau qua việc ô nhiễm môi trường sau đó. Đứng về phương diện lao động, việc khai thác nầy cần phải có 2,5 hecta mới cung cấp cho một lao động. Điều nầy hoàn toàn đi ngược lại quan niệm về phát triển bền vững và hiệu quả kinh tế.
Để bào chữa cho việc khai thác Đảng bộ và một số UBND các tỉnh đã biện minh là phát triển bauxite có lợi thế hơn sản phẩm nông nghiệp vì giá bán sản phẩm nông nghiệp bất ổn định và vùng đất bazan không thích hợp cho việc trồng trọt các cây nầy và, sau khi khai thác có thể phủ lớp đất thịt lên vùng đã khai thác và sử dụng lại trong nông nghiệp. Đây quả thật là một nhận định phản khoa học và chỉ nói theo để làm vừa lòng "lãnh đạo" bên trên mà thôi.
Thêm nữa, diện tích đất đất đã bị khai thác sẽ trở thành hoang hoá và không còn có khả năng tái tạo lại đất nông nghiệp nữa được. Vì, nơi khai thác đã bị đào xới sâu từ 3 đấn 5 mét ở vùng quặng mõ Nhân Cơ (theo ước tính của dự án)…thì lấy đất thịt (lớp đất mặt khoảng 1 mét đã bị đào sới lúc khai thác) nơi đâu để phủ lấp lại diện tích đất đã bị lấy mất đi. Và, những lới giải thích của Việt Nam để tái tạo lại vùng nông nghiệp sau khi khai thác chỉ là những biện giải có tính cách ngụy biện và đánh giá sự hiểu biết của dân tộc như những người chưa đủ trí khôn cũng như khinh thường tất cả góp ý của trí thức trong nước và hải ngoại.
Cũng theo dự án khai thác tại tỉnh Đăk Nông, không chỉ khai thác tại Nhân Cơ (chiếm 510 Km2), còn có 6 địa điểm khai thác khác nữa. Đó là, Trung Đức với 354 Km2; Đắk Song, 300 Km2; Bắc Gia Nghĩa, 329 Km2; 1Tháng 5, 197 Km2; và Quảng Sơn với 159 Km2, chưa kể khu khai thác ở Bảo Lâm (Lâm Đồng với diện tích dự trù 500 Km2 và nơi sau nầy đã được khai thác từ hơn một năm nay với sự hiện diện của trên 1.000 công nhân, chuyên viên TC tại hiện trường.
Như vậy, tổng diện tích khai thác ở Đắk Nông là gần 1.900 Km2 chiếm hơn 1/3 diện tích của tỉnh (1Km2 = 100 hecta). Và nếu khai thác đúng theo dự án, cũng cần có thêm một diện tích tương đương để chứa phế thải bùn đỏ. Thử hỏi, người dân Đắk Nông còn đất đâu nữa để ở và sinh sống trong tương lai đây?
Ảnh hưởng xã hội và văn hoá người thiểu số: Người thiểu số miền Cao nguyên rất nhạy cảm và có mặc cảm đối với người Kinh (không phải là Thượng). Với diện tích Cao nguyên ngày càng thu hẹp vì di dân, từ 1,4 triệu trước năm 1975 cho đến 4 triệu hiện nay, người Thượng có khuynh hướng ngày càng rút sâu vào hướng Tây, đôi khi vượt qua biên giới Lào và Cambodia. Việc khai thác quặng mõ bauxite tại vùng nầy càng làm cho sự việc càng nghiêm trọng hơn đối với họ. Đối với những người ở lại bám trụ, vì đất canh tác càng bị thu hẹp, gia đình có nguy cơ làm không đủ ăn. Do đó, các lao động chính của gia đình cần phải tha phương cầu thực. Vô hình chung, gia đình sẽ bị xáo trộn và có thể đưa đến ly tan. Con cái của họ, vì thiếu vắng cột trụ của gia đình có thể đi vào vòng sa đoạ. Đây có thể là viễn ảnh của xã hội trong một tương lai không xa nếu, TC "thực sự" khai thác hay "chiếm đóng" Cao nguyên Trung phần Việt Nam.
Xây dựng đập thuỷ điện: Kể tứ tháng 6/2008, TC tập trung vào việc khai thác bauxite tại Nhân Cơ trên một diện tích 140 hecta, dùng làm nơi lấp đặt nhà máy và cơ xưởng. Đồng thời, TC cũng đang lấp đặt nhà máy thuỷ điện Đắt Tít với công suất 144 MW và lấy nước từ 4 hồ lớn chạy dọc theo sông Serépok để cung cấp nước cho nhà máy thuỷ điện. Và cũng thử hỏi, biết đến bao giờ mới hoàn tất nhà máy thuỷ điện để có điện dùng cho việc khai thác nhôm. 5 năm, hay 10 năm sau?
Cùng với dự án khai thác bauxite, còn hai dự án phụ góp phần vào là dự án xây dựng tuyến đường sắt nối liền Tây Nguyên và Bình Thuận dài 270 Km và dự án xây dựng bến cảng Bình Thuận để chuyển tải oxid nhôm (giai đoạn đầu trước khi tinh luyện ra nhôm kim loại) bằng đường hoả xa và đường biển. Thời gian đòi hỏi cho việc xây dựng hai công trình nấy ít ra cũng phải hàng chục năm với đầy đủ ngân sách và chi tiết kỹ thuật xây dựng. Hai điều nầy thiết nghĩ chỉ có trên dự án khai thác và không biết bao giớ mới được khai triển!
Năng lượng và nước cho dự án: Nhu cầu điện năng và nước là hai nhu cầu lớn nhứt trong việc khai thác quặng mõ. Theo ước tính, muốn có 1,2 triệu tấn nhôm cần phải tiêu tốn 18 tỷ KWGiờ, và với giá điện là 3 xu Hoakỳ/KWGiờ mới cân bằng được giá thành và giá bán ra, nghĩa là huề vốn (1 tấn nhôm trên thị trường thế giới hiện nay vào khoảng $3.000). Việt Nam với tổng lượng điện sản xuất trên toàn quốc trong năm 2008 là 58,4 tỷ KWGiờ, thử hỏi làm sao Việt Nam có khả năng cung cấp với giá thành như trên để sản xuất ra nhôm. Trong hiện tại, thị xả Đà Lạt, một trung tâm du lịch có tầm vóc quốc gia, nhưng người dân còn phải sử dụng điện tính theo ngày chẳn, ngày lẽ và nước cũng chỉ được phân phối nhỏ giọt, lấy đâu cho cho việc khai thác bauxite đây?
Cũng theo tính toán của dự án Nhân Cơ, muốn khai thác 600.000 tấn/năm số lượng nước thải hồi là 4 triệu m3 . Đây là một lượng nước rất lớn, không dễ một sớm một chiều có thể có được ở vùng luôn luôn thiếu nứớc cho cây trồng nầy.
Để kết luận cho dự án khai thác bauxite, chúng ta có thể xác quyết là, dự án khai thác bauxite đòi hỏi một lượng điện năng khổng lồ và nguồn nước thật dồi dào, nước cũng bị ô nhiễm do bùn "đỏ" trôi theo đường nước đi vào sông Đồng Nai, nguồn nước chính dự trù cho việc khai thác nầy. Nguy hiểm nhất là bụi đỏ và bùn đỏ sẽ che phủ một diện tích vô cùng to lớn và hệ sinh thái chung quanh hoàn toàn bị hủy diệt, cùng vùng đất khai thác và vùng đất chứa bùn đỏ bị hoang hoá hoàn toàn. Do đó, có thể nói, tính khả thi của dự án không cao, nếu không nói là bất khả thi.
Như vậy, quyết định trên có phải là một quyết định đánh trống bõ dùi hay không? Hay là còn có một "ý đồ" nào khác hơn là việc khai thác nhôm? Sự hiện diện của công nhân, chuyên viên, kỹ sư Trung Quốc ở vùng Cao nguyên, xương sống của Việt Nam, nguồn nguyên liệu dồi dào còn lại của Đất Nước, có thể là một nhân tố chính trị - quânsự - kinh tế để Trung Quốc có thêm điều kiện để khống chế Việt Nam?
Nhu cầu nhôm của Việt Nam hàng năm vào khoảng 100 đến 150 ngàn tấn dễ dàng được nhập cảng từ Úc châu. Thử hỏi với lượng sản xuất hàng triệu tấn dùng để xuất cảng sang TC, do đó, Việt Nam càng thêm lệ thuộc vào quốc gia nầy, và dễ dàng bị khuynh đão cũng như áp lực của TC. (Tin tức mới nhứt vừa được cập nhật là hiện có trên 1.000 công nhân, chuyên viên…TC tại hiện trường khu khai thác ở xã Lộ Thắng, huyện Bão Lâm.) Tin mới nhất từ trong nước hco biết là Cty Alumin Nhân Cơ đã có văn phòng tại đây đã 3 năm qua, nghĩa là đã chuẩn bị trước khi Nghị định của NTDũng ký ngày 1/11/2007 và Cty nầy đã bán ra mẫu đơn tuyển dụng công nhân với giá là 50.000 Đồng VN> Hiện nay Cty đã tuyển dụng khoảng 50 công nhân địa phương để gữi qua Trung Quốc học nghề. Số công nhân nầy chính là thân thuộc, bà con của cán bộ của các huyện trong tỉnh Đắk Nông.
Thêm nữa, trong ngày Hội thảo khoa học về việc khai thác quặng mõ Bauxite ngày 9 tháng tư vừa qua tại Hà Nội do Phó Thủ tước CS Hoàng Trung Hải chủ toạ có đầy đủ ban ngành và các bộ liên quan đến việc nầy và có rất nhiều Tiến sĩ chuyên ngành tham dự. Nhưng kết luận vẫn là:
- Tiếp tục khai triển dự án T6an Rai (tức Bảo Lâm ở xã Lộc Thắng, Lâm Đồng);
- Đối với dự án Nhân Cơ, cần phải đợi báo cáo tác động môi trường (Environment Assessment Impacts- EAI) (điều khoản đã ghi rõ ràng trong Bộ luật Môi trường ở Việt Nam trước khi cung cấp giấy phép cho dự án). Như vậy Bộ Chính trị đã đứng trên luật lệ để "ra lịnh" khai thác hai dự án Bauxite nầy và dự trù còn 5 địa điểm khác ở Đắk Nông đã nói ở phần trên.
Kết luận trên của Hội thảo chỉ là một sự dàn dựng thêm một lần nữa, để chúng ta thấy rõ bản chất của chế độ là bất chấp chấp dư luận và góp ý của những nhà chuyên môn trên thế giới.
Thưa Quý vị,
Từ quyết định giao khoán cho TC khai thác cao nguyên Trung phần Việt Nam qua các công trình quặng mõ bauxite, chúng ta có thể hình dung được âm mưu hay kế hoạch của TC (và của cả Việt Nam, vì cả hai thiết nghĩ đều cùng nhìn chung một chiến lược của cộng sản toàn cầu) . Đó là việc khống chế vùng Đông Nam Á châu trong tương lai. Việc nầy đã được TC (hay có cả Việt Nam) tính toán từ lâu qua những công trình quốc tế trong vùng từ hơn 10 năm qua.
Chiến lược xâm chiếm Việt Nam của Trung Quốc
Chúng ta thử hình dung các mắc xích có thể kết nối bảy sự kiện đang được khai triển ở Việt Nam và các quốc gia lân cận. Đó là: 1- Công trình xây dựng xa lộ Trường sơn, 2 - Mở rộng đường số 9 nối liền biên giới Thái-Lào ra biển Đông qua thị xã Quảng Trị, 3 – Xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, 4 - Dự án quốc tế giữa Trung Quốc, Lào, và Thái Lan trong việc khai thông lòng sông Cửu Long để tàu vận tài nặng có thể lưu thông trên thủy lộ nầy, 5 - Thiết lập xa lộ nối liền thành phố Nam Ninh, Côn Minh và Hà Nội, 6 - Miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận mũi Cà Mau, 7 - Dự án khai thác quặng bauxite ở vùng Tây nguyên (Cao nguyên).
Công trình xây dựng xa lộ Đông Trường Sơn: Từ năm 2001, cựu Thủ tướng Việt Nam cộng sản Võ Văn Kiệt đã ra lịnh bằng mọi giá phải xây dựng xa lộ Trường Sơn nối liền Bắc Nam dọc theo biện giiới Việt Miên Lào, huy động hàng trăm ngàn thanh niên xung phong thời bấy giờ. Theo quan điểm chiến lược quân sự mới, xa lộ Trường Sơn sẽ không còn là con đường chiến lược một khi có chiến tranh như lãnh đạo Việt Nam biện minh cho việc xây dựng nầy, vì với vũ khí tối tân hiện tại, sẽ không có việc di chuyển vũ khí và quân đội bằng đường bộ qua kinh nghiệm hai trận chiến ở Iraq và Afganistan. Thiết nghĩ đây là con đường chiến lựơc dành cho mục đích kinh tế-chính trị, nhưng không hẳn để áp dụng cho Việt Nam vì trong suốt chiều dài của xa lộ là vùng thưa dân cư nếu không nói là hoang dã. Như vậy mục tiêu chính phải chăng là nhắm tới một mục tiêu bí mật nhằm giải quyết huyết lộ vận chuyển hàng hoá hai chiều ở miền Tây Trung Quốc ra hải ngoại. Thử hỏi, Quốc lộ I, con đường huyết mạch của Việt Nam, cần phải được nâng cấp vì nhu cầu giao thông và phát triển cho Việt Nam, nhất là từ Quảng Trị trở ra Bắc nhưng tại sao không được lưu tâm đến?
Ngoài con đường trên, theo nguồn tin mới nhất vừa nhận được là Trung Cộng đã hoàn tất công trình tu sửa và mở rộng quốc lộ 13 nối liền Bắc Nam của Lào vào cuối năm 2008 để khai thông đường Tây Trường Sơn. Hiện TC cũng đang tu sửa và mở rộng quốc lộ 7 dự trù hoàn tất vào năm 2010 xuyên Cambodia từ Nam Lào đến hải cảng Sihanoukville ở vịnh Thái Lan. Cả hai dự án nầy là do viện trợ không bồi hoàn của TC.
Đường số 9 được nới rộng thành một xa lộ để khai thông một huyết mạch mới đông tây từ Thái Lan ra biển Đông nối liền Quảng Trị và thành phố Tchepone và tiếp tục nối liền thành phố Sawannakhet của Lào. Có được con đường nầy, hàng hoá hai chiều của TC có thể được chuyển vận bằng đường sông và đường bộ để tiếp cận với các quốc gia khác qua biển Đông. Ngoài ra, từ Sawannakhet đã được tiếp nối qua sông Cửu Long và kéo dài đến hải cảng phiá tây của Thai Lan là Mawlamyine.
Như vậy, từ nay, những tỉnh phía Tây TC đặc biệt là tỉnh Vân Nam, trung tâm công nghệ hoá chất hàng đầu, đều nối liền ra ba cửa ngõ Thái Bình Dương và vịnh Thái Lan ở Việt Nam, Cambodia, và Tây Thái Lan để trao đổi xuất nhập cảng với thế giới bên ngoài.
Về nhà máy lọc dầu Dung Quất: Tuy vùng nầy không có hạ tầng cơ sở như giao thông, điện nuớc, và dân cư thưa thớt, và rất xa trung tâm sản xuất dầu thô hàng ngàn dậm. Địa điểm nầy phải chăng được chọn lựa để đáp ứng mục tiêu chuyển vận dầu khí vào vùng đất phía Tây Nam của TC, thay vì phải chuyển vận từ Thượng Hải, Hong Kong bằng đường bộ rất tốn kém? Có phải, chính vì các lý do trên, mà Việt Nam phải chấp nhận mọi tốn kém để xây dựng nhà máy Dung Quất dù cho tư bản Pháp và Liên bang Nga đã rút ra khỏi dự án từ ban đầu.
Và công trình quốc tế thứ tư là trục vớt đá ngầm cùng nới sâu lòng sông Cửu Long từ năm 2004 qua việc thõa thuận giữa TC, Thái và Lào không ngoài mục đích vận chuyển của các tàu vận tải hàng hóa có trọng tải lớn nối liền Vân Nam (Tây Nam Trung Quốc), Thái, Lào, và Việt Nam, và giao thương với thế giới. Vân Nam là một tỉnh sản xuất hoá chất hàng đầu của Trung Quốc; do đó, nhu cầu vận chuyển nguyên liệu nhập cảng và xuất cảng thành phảm ra ngoại quốc là một nhu cầu chính yếu. Thế giới đã bắt đầu kêu gọi "hãy cứu dòng sông Mekong" qua hiễm hoạ tràn dầu khi hai chuyến tàu dầu đầu tiên nhận dầu tử Trung Đông qua cảng Chiang Ray của Thái Lan và điểm đến là vùng phía Nam tỉnh Vân Nam (Yunnang) ngày 29 tháng 12, 2008.
Thiết lập xa lộ nối liền Nam Ninh và Hà Nội: Song song với việc trên, một thiết lộ cũng đã được khai thác và nối liền hai thành phố. Việc xây dựng hoàn toàn do nhân viên và chuyển viên Trung Quốc đãm nhiệm, cũng như bề ngang của đường xe lữa dựa theo tiêu chuẩn Trung Quốc; do đó, xe lữa Việt Nam không thể sử dụng được. Hiện tại, chúng ta chỉ thấy các toa xe lữa hoàn toàn mang bản hiệu chữ Tàu mà thôi. Phải chăng, thiết lộ nầy ngoài nhu cầu phục vụ các dịch vụ giao thương kinh tế giữa hai nước hay còn một ẩn dụ nào khác? Đó là con đường tháo chạy an toàn cho lãnh đạo Việt Nam hiện tại, mỗi khi có biến động lờn ở Việt Nam?
Thêm nữa, việc thiết lập xa lộ nối liền Côn Minh (Kunming) – Hà Nội- Hải Phòng và Nam Ninh (Nanning) – Lạng Sơn – Hà Nội. Với mắc xích nầy, chúng ta cũng có thể hình dung được âm mưu của TC trong việc ảnh hưởng lên kinh tế-chính trị-quân sự của Việt Nam qua việc hình thành các con đường chiến lược kể trên.
Việc miễn hộ chiếu cho người Trung hoa vào tận Mũi Cà Mau: Mãi cho đến tháng 11, 2008, người Trung hoa được tự do đi lại, không cần hộ chiểu chỉ ở các tỉnh miền Bắc. Sau ngày trên, người Trung hoa có thể đi lại vào tận cao nguyên thậm chí đến tận Cà Mau không cần xin hộ chiếu. Quyết định nầy là một lợi khí lớn cho Trung Cộng để chuyển vận hàng hoá và thực phẩm, và nhân công dân sự hay quân sự (?) chính thức hay không chính thức xâm nhập vào tận miền Nam bằng đường bộ.
Và mắc xích sau cùng và có thể là cuối cùng chính là việc Cộng sản Việt Nam cúi đầu chấp nhận cho TC đem nhân sự và máy móc cày xới mãnh đất thân yêu vùng Cao nguyên Trung phần như đã nói ở phần trên. Xin thưa, Cao nguyên Trung phần Việt nam năm 1975 có số cư dân là 1,4 triệu, và năm 2008 đã tăng lến đấn 4 triệu.
Xuyên qua bảy cản ngại đã phân tích ở phần trên để lý giải cho việc phát triển không đồng bộ đưa đến tình trạng bế tắc hiện tại của Việt Nam trong vấn đề hội nhập vào tiến trình tòan cầu hóa trên thế giới, Việt Nam đang tiếp tục đi theo chiều hướng kinh tế chỉ huy, do đó không còn đủ sức quán tính mạnh để vượt ra khỏi rào cản thần phục và xin-cho, để rồi cuối rồi cũng đi theo …bảng chỉ đường của Trung Cộng mà thôi.
Nhưng chưa hết, Thưa Quý vị.
Điểm thứ tám chúng tôi muốn trang trãi ra đây là một sự nhượng bộ gần như không điều kiện gần đây nhất của Thủ tướng cs Nguyễn Tấn Dũng. Theo tin Tân hoa xã ngày 7 tháng 3, 2009 vừa qua, NTDũng đã phê chuẩn một kế hoạch đầu tư trên 50 tỷ Mỹ kim để phát triển vành đay kinh tế dọc theo duyên hải miền Bắc. Kế hoạch nầy dự trù thực hiện cho đến năm 2020 với ngân khoản đầu tư 100% của TC nhằm biến các tỉnh ở vùng nầy thành khu kinh tế trọng điểm hoàn toàn do TC chủ động từ công nhân, chuyên viên,thiết bị, thậm chí đến công nhân dịch vụ như làm vệ sinh, nấu nướng, bảo vệ v.v… cũng do người Trung hoa đãm nhiệm.
Các dự án kể trên đều là những dự án gây ra ô nhiễm trầm trọng như dự án luyện gang, sắt, thép, than đá, xi măng, phân bón, xây dựng, hoá chất. Tuy các doanh nghiệp bản địa cũng có khả năng thực thi dự án, nhưng hầu như tất cả đều vào tay của doanh nghiệp Trung Cộng trúng thầu!
Như vậy, một lần nữa, sự kiện mới nhất trên đây đã cho chúng ta thấy thêm rõ nét là CS Việt Nam qua Bộ chính trị đã hiến dâng toàn lãnh thổ Việt Nam cho Trung Cộng là một hiện thực.
Thưa Quý vị,
Chúng ta phải làm gì trước chiến lược đen tối của Trung Cộng với sự đồng lõa của cộng sản Việt Nam?
Câu hỏi được đặt ra là: Có phải đây là vấn đề "phải đoàn kết lại" để chống "Trung Cộng"?
Câu hỏi được đặt ra cho tất cả mọi con dân Việt dù ở quốc nội hay hải ngoại. Đứng trước việc khai thác quặng mõ bauxite trên, Việt Nam cộng sản trong một "chiêu thức " khác, qua tác động của những nhóm, hội đoàn ngoại vi… đã khơi dậy lòng yêu nước của người Việt khắp nơi trong đó có cả người Việt hải ngoại cùng nhau "đoàn kết" lại để "chống Trung Quốc".
Đây là một chiêu thức độc đáo làm cho một số người Việt hải ngoại có thể "siêu lòng" trước những lời chiêu dụ trên. Xin đừng quên, 84 triệu con dân Việt (trừ bớt số lượng đảng viên đảng cộng sản) đang còn chịu đựng ách thống trị hà khắc của một chế độ chuyên chính và độc tài, bóp nghẹt tất cả mọi khát vọng tự do dân chủ của người dân. Do đó, chúng ta cần phải cảnh giác để khỏi vướng vào vòng kim cô của Nghị quyết 36.
Nhiệm vụ chính yếu của chúng ta phải nhắm vào hai mặt có tính cách quyết định:
- Thứ nhất, tiếp tục vận động và phối hợp với những nhà dân chủ trong nước, chuyển tải tin tức cập nhật ngõ hầu cùng nhau đẩy mạnh tiến trình dân chủ cho Việt Nam.
- Thứ hai, kêu gọi sự yểm trợ của thế giới tự do qua chiến lược cụ thể của Trung Cộng nhằm tiến chiếm Việt Nam dưới một hình thức "thực dân" mới, nghĩa là không cần động binh để chiếm đóng như ngày xưa nữa.
Còn đối với hành động xâm lược của TC, theo nghiên cứu của Alexander Vuving thuộc Trung Tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta, người Việt hải ngoại cần phổ biến rộng rãi cho thế giới thấy rõ những nhược điểm của TC là tình trạng phát triển quốc gia không ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hoá và không bảo vệ môi trường tạo ra sự ô nhiễm ngày càng trầm trọng không những cho đất nước TC mà còn ảnh hưởng lây lan trên toàn thê giới.
Thêm nữa, việc vận động thế giới, nhất là Hoa Kỳ và Tây Âu, tẩy chay hàng hoá xuất cảng từ TC vì các sản phẩm nầy vì không đáp ứng được tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm hay có chứa hoá chất độc hại ảnh hưởng lên sức khoẻ con người.
Những việc nầy cần phải thực hiện cùng một lúc và việc cần phải làm chính yếu là nỗ lực vận động để thúc đẩy tiến trình dân chủ cho Việt Nam phải được xem là ưu tiên hàng đầu.
Thưa Quý vị,
Qua những nhận định và phân tích vừa kể trên, quả thật chúng ta đã thấy thật rõ âm mưu thôn tính Việt Nam của Trung Cộng.
Cao nguyên Trung phần là yếu huyệt của Việt Nam, không thể đưa cho ai khai thác, vì đây là một vị trí địa dư rất quan trọng và nhạy cảm trong lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, và xã hội.
Việt Nam đã mất lợi điểm ở phương Bắc qua trận chiến 1979 và các hiệp ước song phương Trung-Việt ô nhục về việc cấm mốc biên giới cụ thể là cột mốc số 1116 nằm ở phía Nam của Ải Nam Quan và cách Ải 280 thước tây đã được chính thức cầm vào cuối tháng 12/2008. Và thác Bản Giốc cùng Hoàng Sa đã trở thành một địa điểm du lịch của …Trung Quốc cũng như TC đã đăng quảng cáo trên báo chí Việt Nam mời gọi người Việt đi thăm tụ điểm du lịch nầy. Quả thật mỉa mai! Một đất nước đã được cha ông vun bồi từ ngàn năm trước, để rồi ngày nay con cháu Việt lại bán dâng cho ngoại bang.
Về sườn phía Đông, Việt Nam đã mất biển Đông do việc chiếm đóng Hoàng Sa và Trường Sa để thành lập huyện Tam Sa thuộc TC.
Về sườn phía Tây của Việt Nam là Lào và Cambodia đã được TC kiểm soát qua quốc lộ Bắc Nam 7 xuyên Lào, và quốc lộ Bắc Nam 13 xuyên Cambodia xuống tận cảng Sihanoukville.
Như vậy, Việt Nam hoàn toàn bị bao vây tứ phía, và nếu ngày hôm nay TC kiểm soát được cao nguyên Trung phần, mãnh đất đã được cựu Hoàng Bảo Đại quyết định là Hoàng triều cương thổ, thì chỉ cần một thời gian ngắn, TC có thể tiến chiếm toàn cõi Việt Nam hay xé Việt Nam ra thành nhiều mãnh tuỳ theo chiến lược Nam tiến của họ.
Các nhận định trên đã được tạp chí Foreign Affairs bình luận từ năm 2005, và chúng tôi cũng đã trình bày sơ lược trước nhóm think tank thuộc American Enterprise Institute (AEI) ở quốc hội Hoa Kỳ tháng 12, 2005.
Lòng dân Việt Nam đã hoàn toàn không đứng về một phía với đảng Cộng sản Việt Nam, làm sao họ có khả năng huy động Hội nghị Diên Hồng như dưới thời Trần Hưng Đạo, dưới thế nước tràn đầy tình đoàn kết dân tộc "thế nước yếu lấy gì lo chiến chinh, hy sinh".
TC đã từng "lý luận tương đồng, vận mệnh tương quan" với Việt Nam cộng sản qua 8 chữ vàng trên. Thử hỏi, làm sao Việt Nam có thể cưỡng lại kế hoạch Nam tiến của TC là tiến chiếm Việt Nam và toàn cõi Đông Nam Á. Và dĩ nhiên CS VIỆT NAM sẽ không còn quyền lực nào trong việc quản lý đất nước và sẽ trở thành bù nhìn trước các quan thái thú TC dày xéo đất nước của ông cha để lại, giống như dưới thời Tô Định ngày xưa.
Tóm lại, cho đến ngày hôm nay, có thể nói qua những phân tích trên đây, mọi hành xử của cộng sản Việt Nam đều do cộng sản TC điều khiển từ xa; Việt Nam hoàn toàn không còn khà năng quyết định vận mệnh của đất nước nếu không có sự "góp ý" hay nói trắng ra là là phải làm theo mệnh lệnh của TC mà thôi.
Và việc khai thác quặng mõ bauxite ở cao nguyên phải chăng là chiến lược sau cùng của TC và Việt Nam cộng sản cùng cấu kết với nhau để TC có điều kiện khống chế toàn vùng Đông Nam Á, thực hiện chính sách Đại Đông Á của TC?
Chúng ta phải làm gì, hởi những người Việt yêu nước ở quốc nội và hải ngoại?
Đã đến lúc Việt Nam cần phải thay đổi, và thay đổi theo trào lưu dân chủ trên thế giới.
Đã đến lúc, cộng sản Việt Nam phải cáo chung, vì những việc làm sai trái trong quá khứ và gần đây nhất là việc chấp nhận hay đồng lõa với Trung Cộng để cho hàng ngàn quân nhân dưới dạng công nhân xâm nhập và khai thác nguồn tài nguyên phong phú còn lại của Việt Nam, vùng Cao nguyên Trung phần và nhiều nơi khác ở Việt Nam. Nơi đây có nhiều chỉ dấu cho thấy, đó là âm mưu Hán hoá dân tộc và biến mãnh đất nầy thành một Tây Tạng thứ hai với sự đồng thuận hay tiếp tay của Cộng sản Việt Nam.
Cầu mong cho tất cả chúng ta, những người còn ưu tư đến sự hưng vong của quê hương được chân cứng đá mềm để vượt qua giai đoạn vô cùng xấu của đất nước kể từ thời dựng nước đến nay.
Đất Nước và Dân Tộc là hai thành tố không thể tách rời được và mãi trường tồn.
Chế độ chỉ có thể tồn tại trong một giai đoạn mà thôi.
Và một khi, chế độ đi ngược lại với quyền lợi của Dân Tộc, thế nào rồi cũng bị đào thải và tiêu diệt.
Xin cám ơn Quý vị đã lắng nghe.
Mai Thanh Truyết
Đệ nhứt Phó Chủ tịch Đại Việt Quốc Dân Đảng
Westminster ngày 12 tháng 4 năm 2009
Ghi chú: Sauk hi khai thác quặng bauxite xong(?), chắc chắn chúng ta sẽ không còn nhìn thấy đoá hoa hàm tiếu của Cao nguyên Nhân Cơ cũng như hồ Nhân Cơ dự trù dùng để chứa bùn đỏ nữa!