Nguyên Do và Thách Thức trong Giáo Dục Việt Nam
Nền giáo dục xã nghĩa hiện nay đang đối mặt với nhiều nghịch lý trong đó có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, từ những yếu tố trên tạo ra rất nhiều thách thức mà những người quản lý đất nước không thể bỏ qua nếu còn mang trái tim Việt.
Những thay đổi cần thiết và rốt ráo với một quyết tâm cải sửa những sai lầm liệt kê dưới đây sẽ là những giây phút sám hối đối với dân tộc Việt.
Bài viết nầy xin được đan cử một số suy nghĩ về tình trạng suy thoái giáo dục ở Việt Nam trong giai đoạn xã nghĩa.
Xã hội hóa giáo dục xã hội chủ nghĩa
Chính sách "xã hội hóa giáo dục" đã được khơi mào ngay từ khi Bộ luật Giáo dục ban hành năm 2005 trở đi. Kể từ mốc thời gian nầy, chúng ta có thể nhận biết ngay sự thất bại của chính sách trong bài phân tích "Hiện trạng giáo dục Việt Nam" của cùng người viết. Kề từ đó, Nhà nước sẽ giữ vai trò quyết định trong việc phát triển công tác giáo dục (mission of education), trực tiếp điều hành sự đa dạng trong các thể loại trường ốc và cơ cấu giáo dục như giáo trình, học cụ, nhân viên giảng huấn v.v…Thêm nữa, Nhà nước còn khuyến khích, khởi xướng, và khích lệ tất cả các tổ chức, gia đình, và mọi công dân quan tâm đến giáo dục, …để cùng hoàn thành mục tiêu giáo dục trong một môi trường lành mạnh.
Luật trên lý thuyết rất trong sáng, nhưng có thể nói trong suốt suốt thời kỳ "cai trị" miền Bắc từ năm 1954, cũng như miền Nam sau 30/4/1975, một Đạo luật bất thành văn luôn luôn hiện hữu trong tất cả chính sách giáo dục từ tuyển sinh cho đến việc chọn lựa trường ốc, từ văn bằng tốt nghiệp đại học cho đến việc phân bổ nhiệm sở, thậm chí cho đến lương bổng cùng phụ cấp …cũng còn nhiều phân biệt đối xử.
Đó là chính sách "Hồng hơn Chuyên".
Khi còn là học sinh, sinh viên, tầng lớp "con ông cháu cha cộng sản" hưởng đủ mọi ưu đãi của nhà trường, nào là được điểm ưu tiên trong các kỳ thi cử nhứt là khi các cậu ấm cô chiêu nầy bắt đầu vào tầng lớp "học sinh, sinh viên nồng cốt", rồi "đối tượng Đoàn", Đoàn, rồi đối tượng Đảng, sau cùng là Đảng.
Ngay sau khi tốt nghiệp, các cô cậu Cử lại được điền khuyết vào những vị trí béo bở vừa an toàn cho bản thân, vừa có điều kiện tiếp nối cha ông trong …bước đường vinh thân phì da và tàn phá tài nguyên cùng sinh khí của dân tộc.
Chính chính sách nầy và hệ lụy của nó làm thui chột bước phát triển của tuổi thanh niên, tương lai của một dân tộc. Một khi lý tưởng quốc gia, tình tự dân tộc đã bị đánh mất, tuổi trẻ Việt Nam tương lai sẽ mất phương hướng và Đất và Nước sẽ lùi dần vào bóng tối.
Nghịch lý về số lượng
Mặc dầu số trường ốc, học sinh, sinh viên, thầy cô có tăng trong theo thời gian, nhưng mức tăng trưởng không theo kịp đà gia tăng dân số. Nhu cầu Thầy Cô tăng trưởng và phân bố không đồng đều như dư thừa ở các thành phố và thiếu hụt ở các vùng xa xôi. Vã lại, mục tiêu đào tạo tập trung vào kỹ thuật do đó cả thầy và trò đều khiếm khuyết một số tri thức về xã hội chung quanh…từ đó nảy sinh ra sự "vô cảm" trước những người bất hạnh chung quanh, cũng như nảy sinh ra quá nhiều hiện tượng tiêu cực trong nhà trường và trong các cơ sở hay xí nghiệp.
Thành phần giáo viên ở mọi cấp là một thành phần "bán cháo phổi" bị thiệt thòi nhiều nhứt. Chính vì vậy rất nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không nhận nhiệm sở mà làm nhiều công việc không phù hợp với khả năng của mình. Thí dụ sinh viên tốt nghiệp sư phạm ban Anh ngữ hay Pháp ngữ thường bỏ nhiệm sở đi làm cho các công ty ngoại quốc với lương bổng gấp 10 hay 20 lần cao hơn. Đây là một thất thoát nhân lực và nguyên khí quốc gia không nhỏ. Năm 2012, Bà Nguyễn Thị Bình, Cựu Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo có nói tới việc "chấn hưng giáo dục và bắt đầu từ người thầy".
Nghịch lý về phẩm chất
Giáo dục Việt Nam nặng về lý thuyết. Học sinh, sinh viên học ngày học đêm, quên cả tuồi trẻ mà phẩm chất vẫn kém. Người thầy vẫn còn áp dụng phương pháp từ chương "đọc, chép" và không có điều kiện hay không muốn cập nhật hóa môn giảng dạy của mình.
Về chương trình giảng dạy quá nặng nề và có nhiều tiết mục chiếm nhiều thời gian học tận mà không cần thiết như Triết học Mac Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mac Lênin, Lịch sử đảng công sản Việt Nam và tư tưởng HCM. Những môn học nầy hoàn toàn không giúp ích được gì trong suy nghĩ của những chuyên viên tương lai trong việc xây dựng và phát triển đất nước. Có chăng các môn học trên sẽ đào tạo ra những "robot" trung với đảng và sống chết với đảng, còn đảng là còn công an… mà thôi!
Hình dung chương trình học lớp 12 có 39,5 giờ trong một tuần, nhưng tiết học thể thao và quân sự học đường chiếm 2 giờ và các giờ sinh hoạt khác như đoàn thanh niên, học tập chính trị qua các môn học kể trên chiếm 10.5 giờ. Do đó, học sinh học chuyên môn thực sự chỉ còn có 27 giờ.
Chính Nguyễn Khoa Đạo, Viện sĩ, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo Đại học Quốc gia Hà Nội đề nghị là "phải nhìn thằng vào sự lạc hậu của nền giáo dục Việt Nam so với thế giới và so với nhu cầu của đất nước và thời đại mới". Hoặc Ông Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Minh Hiển trong một báo cáo về tình hình giáo dục Việt Nam trước quốc hội rằng:"chất lượng giáo dục thấp, phương pháp giảng dạy lạc hậu, chậm đổi mới, kỷ năng thực hành và khả năng tự học của học sinh còn thấp, nạn học thêm hay dạy thêm, bằng cấp giả chưa được giải quyết, cơ chế quản lý giáo dục chưa thích hợp với nền kinh tế thị trường, việc quản lý còn nặng tính quan liêu".
Phân tích và nhận định quá chính xác, nhưng tình trạng giáo dục vẫn không thay đổi vì một cơ chế đóng băng của đảng, giống như những ngày đầu tiên CS Bắc Việt nắm quyền cai trị dân, thử hỏi làm sao đất nước không lụn bại được. Thêm nữa, về nạn bằng cấp già, chính cán bộ, đảng viên từ Bộ Chính trị cho đến Trung ương đảng, người người, nhà nhà đều xài bằng cấp giả.
Ngay cả một ông cựu bộ trưởng Giáo dục, Phó thủ tướng, và bây giờ là Ủy viên Bộ Chình trị tốt nghiệp Tiến sĩ ở một trường đại học ngoại quốc trong khi trường đó chỉ được thành lập 9 năm sau ngày ông tốt nghiệp!
Về phương pháp giảng dạy
Có thể nói, hầu hết Thầy Cô ở Việt Nam vẫn còn áp dụng phương pháp giảng dạy "người Thầy là người phát ngôn (speaker) chánh, và học trò là người nghe "listener" chánh. Chính phương pháp nầy tạo ra một sự nhàm chán trong học tập và thúc đẩy việc học trong chiều hướng thụ động, học thuộc lòng, và học sinh không cẩn tìm hiểu hay đặt câu hỏi. Việt Nam cần một phương pháp giảng dạy cách mạng hơn, linh động hơn trong việc đào tạo người thấy trong chiều hướng toàn cầu hóa và sau đó áp dụng cho học trò hầu mong tạo dựng được một sinh khí mới trong giáo dục.
Một nguyên nhân khác trong việc giảng dạy là người Thầy luôn bị áp lực là dạy theo giáo án, giáo trình "một cách mù quáng", không thể thay đổi ngay cả giáo án có nhiều điểm sai đầy rẩy trong đó. Người viết đã khám phá trong kỳ thi tuyển vào Đại học Sư phạm Sài Gòn năm 1976, đề thi môn hóa học sai trái và thiếu nhiều dữ kiện để lý giải. Khi báo cáo lên "Ông Chủ khảo" trường thi, thì được trả lời thẳng thừng là "đừng nói ra" và buổi thi vẫn tiếp tục như không có chuyện gì xảy ra. Như vậy, người thầy xã nghĩa là một người thầy không còn "nhân vị" nhưng luôn được chế độ gán cho danh hiệu cao quý là "kỹ sư tâm hồn". Tâm hồn đây phải chăng là tâm hồn của một con cừu Panurge!
Thêm nữa, lớp học quá tải cũng là một nguyên nhân làm cho việc giảng dạy không có hiệu quả và cũng là một thách thức cho người thầy mỗi khí áp dụng một phương pháp giảng dạy mới và tân tiến hơn. Phương pháp học nhóm, kiểm soát liên tục, sinh hoạt học tập ngoài lớp học tạo sự sáng tạo nơi học sinh, sinh viên không thể nào được áp dụng trong điều kiện sinh viên đông đúc như hiện tại được.
Về Giáo viên, Giáo sư, Trường ốc, và Học cụ giảng dạy
|
Một buổi lễ tốt nghiệp tưng bừng tại trường Đại Học Sư Phạm 2 ở Hà Nội "hệ chính quy". Tin cho hay sinh viên theo học ngành sư phạm không kiếm được việc làm. Muốn có chỗ dạy phải hối lộ. (Hình: Website Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2) |
Việt Nam hiện đang thiếu nhân viên giảng huấn trầm trọng cả về phẩm lẫn lượng. Rất nhiều người thầy không hội đủ điều kiện chuyên môn để giảng dạy, nhưng vì nhiều lý do khác nhau vẫn được đứng lớp, đôi khi còn được đãi ngộ tốt hơn so với người thầy đúng nghĩa với đầy đủ chuyên môn. Tuyệt đại đa số người thầy xã nghĩa không có điều kiện nghiên cứu, hay không chịu nghiên cứu vì lười, vì có nhiều bận tâm khác v.v…hay nhứt là không có khả năng nghiên cứu! Vì thế làm sao họ có thể thăng tiến chuyên môn và truyền đạt kiến thức cho hoc sinh hay sinh viên được.
Về trường ốc và học cụ giảng dạy, đa số trường ở Việt Nam không có các phòng thí nghiệm, chỉ học "chay" mà thôi. Thư viện để tham khảo cũng là một xa xỉ ngay cả ở bậc đại học.
Xây dựng phòng ốc, tạo điều kiện cho học sinh có một môi trường học tập thích hợp sẽ khuyến khích con em chúng ta trên bước đường học vần, và làm giảm áp lực của người thầy trong việc giảng dạy.
Về việc quản lý nhà trường và chính sách thi cử
Quản lý nhà trường cho đến nay vẫn là một điểm yếu của Việt Nam. Chính vì đặt năng vào sự an toàn của đảng, cho nên việc kiểm soát sinh viên, học sinh và người thầy rất khắc nghiệp. Một chính sách công an trị trong học đường chỉ còn tồn tại ở một và quốc gia độc tài mà thôi. CS Bắc Việt vẫn luôn luôn muốn cấy chủng tử sợ vào đầu người thầy và trò.
Chính sách thi cử cũng là một hạn chế bước tiến của dân tộc. Chính sách thi vào lớp 10 còn tồn tại; thi vào đại học rất phức tạp…từ đó tạo ra một gánh nặng hành chánh trong việc ra đề thi và tổ chức thi cử. Và cũng từ đó tệ trạng gian dối trong thi cử như bán đề thi, lộ đề thi, đánh "bùa" (phao), giám thị làm lơ, thầy đi ra ngoài …để cho thí sinh mặc tình quay cóp.
Thay lời kết
Trong điều kiện giáo dục ở Việt Nam hiện tại, phẩm chất giáo dục vẫn là chìa khóa mở ra và giải tỏa tất cả những vấn nạn cùng các thách thức cho Việt Nam. Phẩm chất giáo dục phải được cải tổ và khai triển từ bậc giáo dục đại học cho đến trung học đệ nhứt cấp.
Các cơ quan thiện nguyện, người dân cần đóng góp vào việc cải thiện phẩm chất giáo dục như trợ giúp tài vật trong việc mở mang trường ốc và hạ tầng cơ sở, cấp học bổng cho sinh viên học sinh nghèo hay học giỏi.
Cần lưu tâm nhiều hơn đối với những dân tộc thiểu số, cũng như thiết lập một chương trình giảng dạy riêng cho họ vì người thiểu số không có điều kiện như trẻ con Việt được nói và nghe tiêng Việt qua miệng lưỡi người mẹ.
Một khi phẩm chất giảng dạy tăng lên, việc học thêm hay học trường tư lập sẽ giảm bớt. Từ đó, tình trạng chênh lệch cán cân kinh tế trong xã hội có thể được thâu ngắn hơn qua việc giáo dục phổ cập vào đại chúng.
Sau cùng, chính sách giáo dục xã nghĩa cần phải được thay thế bằng một chính sách thông thoáng hơn, không còn bóng dáng công an trong học đường nữa.
Mong lắm thay
Mai Thanh Truyết
Mơ về Việt Nam tương lai - 10/2013
Bài đọc thêm:
Bài 1: Suy nghĩ về một Chính Sách Giáo Dục mới
Nhị Thể - Giáo Dục (Dual – Education)
Some ideas on the new strategy of education - dual education
Dual Education is something new to Vietnam. It worked perfectly in Germany. This country has solved the problem of unemployment for students after they graduated and even during their summer time very well compared to the U.S. and other countries which followed the tradition of "literature education". The countries which pay too much attention to academic education and theoretical studies would have problems in employment for students when they graduated. In Germany, they followed the model of "study and practice", or "dual-education". Therefore, the new graduated students who failed to get jobs only fluctuated within the margin of 8% annually. During the time of unification, the unemployment rates were around 50% for youth, but when they entered the era of stability, the unemployment rates of graduated students fell to 8%. That was the achievement of what is called "dual-education" (study and practice paralleling). There have been 3 nations which have attained success based on "dual-education" in the E.U: Germany, Austria, and Switzerland.
Efforts have been made right in the elementary, secondary and later higher education or university degrees to provide students with apprenticeships, in paralleling with academic studies. The results have been good as the statistics showed. In VN, under the Republic of Vietnam, the Cao Thang School followed this model of education and got good results, as they did apprenticeships at such firms as Ba Son, Caric (a ship builder) and other places. After finishing their programs at Cao Thang School, they could be accepted into the Phu Tho National Centre for Technology in Phu Tho, near Saigon (engineering degrees of various branches).
Trong giai đoạn kinh tế toàn cầu đang suy trầm hiện tại, vấn đề giải quyết lao động và công ăn việc làm một vấn đề cốt lõi cho việc phát triển quốc gia, đặc biết đối với số lượng đông đảo của các tân khoa vừa tốt nghiệp. Đây là một thách thức lớn và hướng giải quyết của từng quốc gia sẽ định mức lại sức tăng trưởng xã hội của quốc gia đó. Hiện tại Hoa Kỳ vẫn lúng túng trong việc sắp xếp "việc làm" cho những sinh viên tốt nghiệp hằng năm. Và năm 2012 số tân khoa ra trường không kiếm được việc làm đã quá ngưỡng cửa 30%.
Ở các quốc gia Âu Châu tình trạng càng tệ hại hơn nữa. Năm 2012 tình trạng không có việc làm của sinh viên tốt nghiệp là 56% ở Tây Ban Nha và 38% ở Ý. Mùa Hè năm nay đã đến nghĩa là thêm một số lượng lớn sinh viên ra trường cần phải có việc làm.
Riêng tại Đức tỷ lệ sinh viên mới ra trường không tìm được việc làm chỉ giao động trên dưới 8% hằng năm. Câu hỏi được đặt ra là vì sao Tây Đức phải cưu mang người anh em nghèo là Đông Đức với tỷ lệ thất nghiệp khi thống nhất hai nước Đức trên dưới 50%, mà hiện nay nước Đức thống nhất lại ổn định mức lao động xã hội và phát triển trong chiều hướng ứng hợp với toàn cầu hoá?
Có thể trả lời ngay là nhờ chính sách giáo duc Đức đặt nền tảng trên hai khía cạnh học và hành, và cũng có thể nói đây là một chính sách giáo dục quốc gia mới trên thể giới. Đó là chính sách "Dual-Education", xin tạm dịch là "Nhị Thể-Giáo Dục". Nước Đức đã áp dụng chính sách này từ năm 1969 cho đến hôm nay.
Chính Sách Nhị-Thể Giáo Dục
Trong một cuộc họp gần đây, Ursula Von Der Leyen, Bộ trưởng Lao động Đức công bố trước các thành viên của Liên hiệp Âu Châu (European Union) về tình trạng thất nghiệp ở xứ này, đặc biệt đối với giới trẻ là nhờ hệ thống nhị-thể giáo dục. Có ba quốc gia Âu Châu thành côngtrong chính sách này là Đức, Áo và Thuỵ Sĩ.
Đây là một chính sách truyền thống phối hợp giữa giáo dục cổ điển (trường lớp Tiểu học-Trung học-Đại học) và tập sự học nghề (apprenticeships). Việc phối hợp trên làm cho học viên vừa đi làm vừa hoàn tất học trình của mình. Do đó phần lớn sinh viên đều có việc làm ngay sau khi ra trường.
Dĩ nhiên chu kỳ học tập cho hệ thống này dài hơn lề lối học tập cổ điển, vì sinh viên phải tạm nghỉ học lý thuyết một thời gian để đi tập sự trong khi vừa học được kinh nghiệm chuyên môn và giải quyết được tình trạng tài chánh trong thời gian học.
Chính sách nàp cũng có thể được xem như việc thiết lập các hệ thống giáo dục hướng nghiệp (Vocational-Education) tại Hoa Kỳ. Chính nhờ vậy mà nước Đức vượt qua được suy thoái toàn cầu từ năm 2007 và có thêm khả năng giúp các quốc gia khác trong Liên hiệp Âu Châu như Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, vv…
Các học sinh ở Đức sau khi tốt nghiệp trung học nếu không muốn vào hoặc không được vào đại học có thể tham gia chương trình giáo dục này; họ có thể đi làm 3 hoặc 4 ngày trong một hãng xưởng để được huấn nghiệp chuyên môn và được trả lương đầy đủ. Những ngày còn lại trong tuần họ phải đi học những lớp quy định trong chương trình giáo dục do sự tổ chức và điều hành của Phòng Thương Mại và các Hội Đoàn Kỹ Nghệ. Sau 3 niên học (không có nghỉ hè), học viên được cấp chứng chỉ và hầu hết đều được tiếp tục làm việc tại nhiệm sở mà họ đã thực tập trong những năm qua. Họ đã chính thức là nhân viên của hãng.
Đối với tuổi trẻ Đức, họ rất mến chuộng hệ thống giáo dục này, có 2 trên 3 học sinh tốt nghiệp trung học chọn lề lối trên và họ đóng góp không nhỏ vào khoảng 350 ngành nghề đang hoạt động tại Đức, từ công việc của người thợ chuyên môn hoặc trong những dịch vụ thương mại, từ kế toán qua dược khoa, y khoa và nông nghiệp, vv…
Chính sự thành công của chính sách này khiến cho nước Đức có một lực lượng chuyên môn có tay nghề cao, cung ứng và điều hòa được mức thất nghiệp thấp cùng duy trì sức phát triển đều đặn của quốc gia. Thêm một điểm son của chính sách giáo dục trên là nhân viên sau một thời gian làm việc có thể được tiếp tục học thêm để có những nhiệm vụ và địa vị cao hơn.
Nhìn lại Việt Nam
Với chính sách chuyên chính vô sản hiện tại, có thể nói chính sách giáo dục Việt Nam hoàn toàn đi đến bế tắt. Số trường đại học, cao đẳng tang gấp trăm lần so với miền Nam trước đây. Nhưng đó chỉ là số lượng, thật sự về phẩm chất, chương trình và đạo đức giáo dục băng hoại làm cho tuổi trẻ Việt Nam ngày nay không còn định hướng về quốc gia và dân tộc.
Từ đó, đưa đến sự thờ ơ đối với công việc phát triển quốc gia. Phần lớn chạy theo việc làm giàu dù lương thiện hay bất chính, sống không biết ngày mai, sống thâu đêm suốt sáng bên cạnh những thú tiêu khiển trụy lạc sa đọa. Một số khác không có điều kiện thì sống vất vưỡng bên lề xã hội. Những người cầm quyền hiện tại hoặc vì bận lo bảo vệ quyền lực và quyền lợi, vì vậy đất nước ngày càng đi xuống.
Câu chuyện "hàng ngày ở Huyện" xảy ra trong suốt 38 năm qua trong mỗi kỳ thi tốt nghiệp trung học vào tháng 6 hằng năm. CS Bắc Việt không thể bưng bít được những hình ảnh tiêu cực xảy ra từ Bắc chí Nam như: đánh bùa (phao) trao đổi với giám thị; giáo sư chỉ bài cho thí sinh trước khi thi và trong ngày thi. Việc buôn bán bài giải là một dịch vụ béo bở cho một số người. Từ đó, nhìn lại chính sách giáo dục miền Nam trước kia là một chính sách quốc gia đặt căn bản Dân tộc-Nhân bản-Khoa học-Khai phóng làm trọng tâm cho việc phát triển quốc gia.
Và cũng có thể nói hệ thống nhị thể-giáo dục nêu trên cũng đã manh nha ở giai đoạn của bậc trung học miền Nam thời bấy giờ. Vào năm 1958, một Đại Hội nghị giáo dục toàn quốc (miền Nam từ vỹ tuyến 17 trở vào) đã nghiên cứu và chấp nhận 3 nguyên tắc căn bản định hướng cho nền giáo dục Việt Nam là nhân bản, dân tộc, khai phóng.
- Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục nhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy nhằm mục đích phát triển toàn diện con người;
- Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dục dân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống, mật thiết liên quan đến những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và bảo đảm hữu hiệu cho sự sinh tồn và phát triển của quốc gia;
- Nền giáo dục việt Nam phải có tính cách khai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học, phát huy tinh thần dân chủ xã hội, thâu thái tinh hoa các nền văn hóa thế giới.
Đến năm 1970, thêm một nguyên tắc khác được đem vào làm chuẩn cho nền giáo dục miền Nam. Đó là lấy sự tôn trọng tinh thần khoa học, như các quốc gia tân tiến trên thế giới, làm nền tảng cho mọi sự tiến bộ giáo dục tại Việt Nam.
Từ đó, giáo dục miền Nam đã có những bước đi vững chắc trên mền tảng của Nhân bản-Dân tộc-Khai phóng-Khoa học. Đây chính là kim chỉ nam làm cho nền giáo dục miền Nam liên tục tiến bộ nâng cao phẩm chất giáo dục quốc gia, và tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên miền Nam trở thành những thành viên ưu tú của đất nước trong suốt thời kỳ 1958-1975.
Chúng ta còn nhớ trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng, được thánh lập qua sắc lệnh của Tổng thống VNCH ngày 29/6/1956, tọa lạc tại đường Huỳnh Thúc Kháng, SàiGòn, trong đó học sinh được học ngoài chương trình phổ thông còn rất nhiều giờ dành cho việc học nghề: tiện, máy móc, hàn xì….Và hằng năm học sinh được gởi đi thực tập ở xưỡng Ba Son, hảng đóng tàu Caric, nhà máy đường Khánh Hội, và một số hảng dệt khác.
Qua việc đào tạo trên, học sinh tốt nghiệp trung học nơi đây khi thi đậu vào Trung tâm Quốc gia Kỹ thuật Phú Thọ thường hội nhập và thu thập nhanh hơn các học sinh phổ thông. Họ là những kỹ sư giỏi của trường.
Vào cuối thập niên 1960, trường Kiểu mẫu Thủ Đức được thành lập dưới sự bảo trở tài chánh và kỹ thuật của Hoa Kỳ. Giảng viên phần lớn được huấn luyện ở Hoa Kỳ. Rất nhiều ngành nghề mới được giảng dạy và đào tạo nơi ngôi trường này.
VNCH còn có thêm hệ thống giáo dục tổng hợp:
Trung học tổng hợp: Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v… nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống. Thời Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Ánh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng Binh Lễ ở Long Xuyên. (trích trên mạng điện tử).
Đây là một đóng góp không nhỏ vào việc phát triển quốc gia. Chính vì vậy tổng sản lượng nội địa (GDP) của miền Nam năm 1960 là $223 Mỹ kim/người, so với Nam Hàn là $155, Thái Lan $101, Trung Cộng $92, Ấn Độ $84, và CS Bắc Việt $73.
Hiện nay, sau 38 năm xã hội chủ nghĩa, Thái Lan có tổng sản lượng nội địa cao gấp 4 lần Việt Nam, Trung Cộng gấp 5 lần, Ấn Độ gấp 6 lần. Riêng Nam Hàn tăng trưởng nhanh và qua mặt hơn Việt Nam 15 lần.
Từ những con số vô tình trên, chúng ta có thể kết luận là CS Bắc Việt đã đưa đất nước vào tận cùng của sự nghèo đói, ngoài sự thành công "vĩ đại" của họ trong quản lý kinh tế là đem lại hàng tỷ tỷ đô la cho những nhóm "lợi ích kinh tế" mà những người lãnh đạo chốt bu của đảng chính là những chủ nhân ông của các tài sản kếch xù trên.
Tương lai Việt Nam đi về đâu?
Câu hỏi trên xin dành cho tuổi trẻ Việt Nam, những người sẽ mang lại lá cờ hồng tự do, dân chủ cho Đất và Nước.
Mai Thanh Truyết
Trên đường thiên lý-2013