Sinh nhựt thứ 4 - Khối 8406

 

Kỷ niệm Sinh nhựt Khối 8406

 

 

Thưa các bạn trẻ Việt Nam,

 

            Hôm nay, nhân ngày kỷ niệm 4 năm thành lập Khối 8406 (mùng 8 tháng 4 năm 2006), tôi muốn chia sẽ với bạn một vài suy nghĩ tản mạn của tôi sau khi CS chiếm đóng miền Nam sau 35 năm. 35 là một thời gian dài có thể tính cho một thế hệ. Tuy nhiên, dưới sự cai trị của đảng CS, Đất Nước chúng ta không thể phát triển một cách tuần tự tiệm tiến như các quốc gia trong vùng. Tôi muốn nói đến Thái Lan, Mã Lai, Đại Hàn , Phi luật Tân, Miên và Lào…

 

            Các quốc gia vừa kể trên ở vào thời điểm trước năm 1975, mức phát triển còn kém so với miền Nam Việt Nam. Vào thời điểm nầy, lợi tức trung bình của người miền Nam là vào khoảng $150/đầu người, so với Nhật Bản là $180, Thái Lan $120, Mã Lai $100. Còn Miên và Lào thì chỉ vào khoảng $60/đầu người. Còn ngày hôm nay thì sao? Nhật Bản và Đại Hàn có lợi tức gấp 20 lần của người Việt trong nước; còn Thái Lan và Mã Lai, Tân Gia Ba cũng xấp xỉ hàng chục lần.

 

            Có bao giờ các bạn hỏi lý do tại sao hay không? Tôi tin chắc chắn là có, cũng như các bạn cũng đã có câu giải đáp trong đầu từ bao nhiêu năm nay rồi. Không cần phải chứng minh thêm gì nữa, tất cả chúng ta, ngoại trừ những người đảng viên cộng sản, điều thấy là đất nước ngày hôm nay đang đi thụt lùi là do sự quản lý và phát triển đất nước không ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa, không bảo vệ môi trường, phát triển không chính sách. Đó là những lý do căn bản mà đất nước phải gánh chịu ngày hôm nay.

 

            Người dân Đồng bằng sông Cữu Long, một vựa lúa của Việt Nam, xuất cảng hàng năm gần 6 triệu tấn gạo…mà người dân luôn luôn sống trong nghèo đói, phải ăn gạo nhập lậu từ Cambodia hay Thái Lan. Còn giáo dục nơi đây đã sụt giảm từ lớp 7,5 cho lứa tuổi từ 14 đến 25 vào năm 1975 theo thống kê của UNESCO,  xuống còn 5,5 mà thôi vào năm 2005! Trong lúc đó người dân Hà Nội trong cùng điều kiện và thời điểm tăng từ lớp 5 lên tới lớp 7!

 

            Để trả lời và giải thích hiện tượng trên, không gì hay hơn và thấm thía hơn là 4 câu thơ trích đoạn trong bài thơ của Hoàng Tường Phong, giải nhứt cuộc thi thơ Đồng bằng sông Cữu Long, nhưng bị "truất" chỉ vài ngày sau khi công bố kết quả. Đó là:

 

Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái rất ngậm ngùi:

Sản lượng lúa nhiều, vùng cá basa lớn nhất,

Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,

Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

 

Để rối anh kết luận bằng:"Vầng trăng nghẹn ngào, chưa tỏa sáng một vùng quê".

 

            Thưa các bạn, qua tuyệt tác trên, tôi chỉ còn biết nói theo "tiếng Tây bồi" của tôi là "finir l'eau dire" (âm là phi nỉ lỗ đía) và có nghĩa là "hết nước nói" mà thôi!

 

 

Như vậy, nếu ai hỏi rằng "Tương lai Việt Nam 35 năm sau cuộc chiến sẽ như thế nào"? 

 

Xin thưa, đây là một câu hỏi mà mỗi người trong chúng ta tự hỏi nhau hàng ngày, Không cứ gì phải đợi sau 35 năm.  Tôi muốn trình bày nơi đây với tư cách của một người Việt bình thường, một người Việt "tout court" không cần học vị, không chức vụ kèm theo. Tôi hy vọng nói ra đây những suy nghĩ cùng nhận định của tôi về hiện tại và viễn ảnh tương lai. Xin quý vị cùng tôi vào đề.

 

Như quý vị đã biết, yếu tố con người là một trong những yếu tố quyết định trong mọi chuyễn dịch của sinh vật trên quả địa cầu nầy, trong đó thế hệ trẻ hiện tại càng là một thành tố quyết định cho tương lai của từng quốc gia. Tôi muốn thưa với anh các nhận xét của riêng tôi về các chuyễn biến tư tưởng và sinh hoạt của người Việt, nhất là tuổi trẻ trong quá trình 35 năm sau cuộc chiến để có một dự phóng về tương lai Việt Nam. Tôi không muốn nhắc đến cuộc chiến Việt Nam đã qua, không phải vì đã quên hay vì mặc cảm  mà chỉ muốn chia xẻ qua bài viết nầy những thay đổi tâm lý, hành động, cùng các suy nghĩ của thế hệ trẻ hiện tại trong suốt thời gian 35 năm  qua, nhứt là sau 4 năm, Khối 8406 đã mang lại một sinh khí mới cho tuổi trẻ Việt Nam.

 

Tôi chỉ đặt trọng tâm vào tuổi trẻ hôm nay, ở cả quốc nội và hải ngoại, vì tôi thấy tuổi trẻ đã báo hiệu cho thấy nhiều chuyễn mình rất lạc quan. Tại hải ngoại, tuổi trẻ đã có tầm nhìn khai phóng, can đảm cáng đáng việc cộng đồng trong tinh thần vô vị lợi, điển hình là việc tổ chức Hội chợ Tết ở Cali nhiều năm qua. Thật phấn khởi vì nhìn đâu cũng đều thấy sự hiện diện của tuổi trẻ.

 

Nhìn qua các trung tâm dạy tiếng Việt ở rãi rác khắp nơi có đông người Việt cư ngụ, tuổi trẻ chiếm đa số, năng động và bền bĩ theo đuổi công cuộc bồi đắp và gìn giữ tiếng Việt tại hải ngoại. Tôn chỉ "Tiếng Việt còn, nước Việt còn" chắc chắn vẫn là một nền tảng bền vững để bảo tồn văn hóa Việt Nam. 

 

Ở quốc nội, mặc dù phải chịu đựng khó khăn muôn vàn về mọi mặt, mất nhiều thì giờ cho sinh kế, nhưng tuổi trẻ cũng nêu lên ý chí vươn lên trong học tập, và tinh thần từ bi bác ái trong các công tác từ thiện và xã hội mỗi khi Đất Nước có biến động do thiên tai. Những đóng góp nầy là phần nhiệm của chính những người quản lý đất nước; nhưng chính vì bất lực, vì vô cảm họ đã không đảm trách được phần nhiệm làm giản bớt đau khổ của đồng bào cật ruột.

 

Dù sống trong hoàn cảnh kinh tế khó khăn trong nước hay đứng trước những cám dỗ của một xã hội thiên về cá nhân và vật chất trên thế giới, tuổi trẻ Việt Nam ở hải nơi đều thể hiện nghị lực phấn đấu với một tinh thần quả cãm và một ý chí tuyệt vời. Tuổi trẻ Việt Nam không ngại những phiêu lưu trong hành xử dù phải chịu nhiều vấp ngã. Học hỏi trong kinh nghiệm, trong thất bại, tuổi trẻ Việt Nam đã và đang mạnh dạn đi tới tương lai.

 

Tuổi trẻ Việt Nam trong sáng hội nhập vào xã hội với niềm tinh vững mạnh cho tương lai, không mặc cảm, không vướng bận quá khứ, không có những rào cản, vết hằn từ các oan nghiệt của lịch sử như các tuổi cha anh, không ràng buộc vào những thành kiến bảo thủ và ý tưởng cực đoan. Với thêm tinh thần dân chủ cao đã được un đúc do học tập và kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày, tuổi trẻ càng khiến cho chúng ta tin tưởng hơn khi dự phóng về tương lai.

 

Chắc quý vị không quên rằng quá trình tiến lên dân chủ của con người là do kết quả của bao thế hệ, kéo dài hàng bao thế kỷ?  Những hiện tượng phân hóa trong cộng đồng ở hải ngoại, những hình ảnh tiêu cực thường thấy ở quốc nội...chỉ là một giai đoạn chuyễn tiếp, giai đoạn lột xác của từng cá nhân để hội nhập vào một xã hội trong đó mọi người đều bình đẳng và được đối xử như nhau.

 

Từ hơn 25 thế kỷ trước, khái niệm tự do cá nhân mà chúng ta đang hưởng  đã được manh nha ở Athens Hy Lạp. Trước đó chưa có xã hội nào nghĩ đến khái niệm công bằng và tự do! Quan niệm xưa lại cho rằng, nếu có tự do, xã hội sẽ đi đến hỗn loạn.

Và qua bao nhiêu thế kỷ, tự do cá nhân và trật tự xã hội vẫn được xem như là hai thực thể đối kháng, không thể hiện diện hài hòa trong cùng một xã hội được.  Người Hy lạp 25 thế kỷ trước đã nhận định sáng suốt rằng sự tự do vô giới hạn sẽ kéo theo những biến loạn cho trật tự xã hội. Nhưng cuối cùng cũng chính người Hy Lạp đã tự soi sáng rằng nếu con người có được tự do cá nhân, họ sẽ tự thích ứng và tự chế để ổn định trật tự mà không cần phải có một quyền uy tối thượng để ban bố và tái lập trật tự xã hội. Từ đó cung cách tự chế của người Hy Lạp ở giai đoạn trên rất cao trong việc hành xử quyền tự do cá nhân. Và thành phố Athens đã là căn cứ địa đầu tiên cho nền tự do trên thế giới, trong đó mọi cá nhân đều được tham gia vào guồng máy của chính phủ từ anh nông dân đến kẽ chăn chiên lẫn các thương gia, phú hào... Pericles đã thốt lên câu nói bất hủ " Mọi cá nhân đều đáng được tin cậy – The individual can be trusted".

Ngày nay, Đức Dalai Dama, trong diễn văn chào mừng thiên niên kỷ mới đã chia sẻ, tin tưởng và tôn vinh tuổi trẻ trong việc xây dựng và tái lập trật tự xã hội cho tương lai. Với kiến thức thu thập được từ những kinh nghiệm về xây dựng và hủy diệt của các bậc cha anh, cộng thêm niềm tự tin, tính cả quyết cùng nhận thức hướng thượng, tuổi trẻ sẽ biến cải xã hội tương lai thành một môi trường hạnh phúc hơn, hòa bình hơn trong đó con người sống hài hòa với nhau hơn.

 

Thưa Các bạn,

 

Để kết luận cho bài viết hôm nay, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam ở hải ngoại và quốc nội đã trưởng thành và đang mạnh dạn đi vào cuộc hành trình mới làm cho xã hội Việt Nam ngày càng tốt thêm. Trong tiến trình dân chủ hóa tư tưởng và xã hội...dĩ nhiên tuổi trẻ cũng sẽ gặp phải muôn vàn cản ngại, thất bại vì thiếu kinh nghiệm. Nhưng  những điều đó sẽ không làm tuổi trẻ chồn bước mà trái lại các rào cản trên chỉ là những thử thách ban đầu. Với cung cách tiếp cận lạc quan, tầm nhìn rộng mỡ và hướng về tương lai, chắc chắn tuổi trẻ có đủ tiềm năng và khả năng để tái lập một xã hội Việt Nam trong đó con người hành xử với nhau với tâm an bình, từ bi và nhân bản hơn.

 

Sự tham gia của tuổi trẻ và phát triển liên tục của Khối 8406 sau 4 năm đã đánh động vào tâm thức tuổi trẻ ở hai nơi,và khiến cho tôi có được một tầm nhìn lạc quan và tích cực hướng về tương lai cũng như rất tin tưởng vào Tuổi Trẻ Việt Nam sẽ làm được việc là tái lập một nước Việt Nam an bình qua chủ trương của nhà chí sĩ Phan Chu Trinh là :" Nâng cao Dân trí – Chấn hưng Dân khí – Cải tiến Dân sinh".

 

Ngày đó sẽ không còn xa!

 

 

 

MaiThanhTruyết

Kỷ niệm sinh nhựt lần thứ tư của Khối 8406

8/4/2010

 

 

Nói chuyện ở Houston

THIỆP MỜI

 

 

Trân trọng kính mời…….......................................................

 

Nhằm giới thiệu một tác phẩm giá trị và cần thiết đối với hiện tình đất nước:

"Từ Bauxite đến Uranium"

- Tiến trình đô hộ Việt Nam của Trung Cộng.

 

Một công trình biên soạn với phân tích sâu xa                    của ba nhà khoa học, học giả: Tiến sĩ Mai Thanh Truyết,                               Tiến sĩ Phan Văn Song và học giả Trần Minh Xuân.

 

Buổi Ra Mắt Sách và Hội luận sẽ được tổ chức tại:

 

 Hội quán Văn Hóa, Ðài Radio Sàigòn – Houston

                   10611 Bellaire Blvd

                   Houston, Texas 77072

                   Ngày 18 tháng 4 năm 2010,

                   từ 1:00pm đến 4:00pm

 

 Quí vị sẽ có cơ hội trực tiếp đàm luận với Tác giả  và các Nhân sĩ quan tâm đến quê hương, dân tộc..

 

Chúng tôi trân trọng kính mời quý Hội đoàn và Ðồng hương vui lòng tới tham dự, để cùng tham gia luận bàn về tình trạng lâm nguy của đất nước và thái độ hèn hạ của tập đoàn phản dân hại Cộng Sản Việt Nam.

 

Vào cửa tự do; có giải lao và ẩm thực nhẹ.

 

 

 

Ban tổ chức trân trọng kính mời.

 

Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Khu vực Nam Hoa Kỳ) 

713-224-7304

BNS Thế Giới & Tạp chí Sống  281-564-8808

Hội Quán Bụi Vàng  281-575-0678

 

 

 

 

 

 

 

Tổ chức bảo trợ:

 

Cộng Ðồng NVQG/Houston & Phụ Cận

Ðại Việt Quốc Dân Ðảng

Việt Nam Quốc Dân Ðảng

Liên Minh Quang Phục Việt Nam

Liên Minh Dân Chủ Việt Nam

Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Ðảng

Ðảng Vì Dân

Phong Trào Quốc Dân Việt Nam Hành Ðộng

Câu Lạc Bộ Dân Chủ

Hội Cảnh Sát Quốc Gia

Tổng Hội Quân Cảnh

Hội Phụ Nữ Houston

International Foundation For The Development of Vietnam

Tổng Hội Nghiên Cứu Võ Thuật Thế Giới

 

 

 

Chương Trình

 

Tiếp đón Quan khách & Thân hữu, Giải khát , hàn huyên.

- Ðại diện BTC cảm ơn Ô.B. Nguyễn Quỳnh & Eileen      bảo trợ cho chi phí buổi tổ chức; cảm ơn các                         Ðảng phái Quốc gia, Ðoàn thể, Hội đoàn                              hưởng ứng tham gia hỗ trợ cho buổi hội luận hôm nay.

- Chào mừng Quan khách, Ðồng Hương                                và giới thiệu MC: Ông Nguyễn Trần Quý.

- Khai mạc: Chào Quốc kỳ VNCH và Phút mặc niệm

- Ðại diện BTC chào mừng quan khách và                               giới thiệu Tác giả - Diễn giả.

- Một bài hát đấu tranh 

- Giới thiệu Tác phẩm (do ông Phan Hữu Chí,                         cháu cố của nhà ái quốc Phan Chu Trinh).

-Thân hào nhân sĩ phát biểu….

- Một tiết mục Văn nghệ

- TS Mai Thanh Truyết tâm tình với thính giả .

- Lời cảm ơn và kết thúc

 

 

 

"Bề" Mai Thanh Truyết

Kính thưa D D .

Bọn Việt Gian tay sai CS thường núp với danh từ chống cộng ,dân chủ, tự do ở hải ngoại, Bọn chúng thường viết những bài phản bát, chống phá vạch lá tìm sâu , bắt bẻ từ dấu chấm phết. Hoặc tỏ vẽ ta đây là nhà chiến lược v v .thí dụ gần đây bo,n văn nô văn bút hải ngoại chê bai hai chiến sĩ đấu tranh dân chủ là linh Mục Nguyễn Văn Lý và cô luật sư Lê Thị Công Nhân .  Những bài viết ly gián đánh phá những nhà trí thức yêu nước hay các vị tu sĩ các tôn giáo là mục đích cũa CSVN được tay sai bồi bút văn nô  tranh nhau lập công với lũ thú vật CSVN .

Những tên bưng bô nầy làm sao lấy vải thưa mà che mắt thánh cũa CD hải ngoại được .

 Tập thể chiến sĩ  V NCH đã và đang khoanh tròn tên họ nhừng tên tay sai nầy , để lưu danh vào lịch sử cho con cháu mai sau 

Danh sách Trận Liệt " Hắc Đạo Bưng Bô , VĂN NÔ HẢI NGOẠI " đã được anh chi em rơom chính nghĩa Việt Nam CộNG HÒA cẩn thận ghi danh và lưu trử .

Hong Hai .
**********************


 

Để trả thù kẻ sĩ không "đầu hàng giai cấp",
Tiến sĩ MAI THANH TRUYẾT đã bị"bề" hạ cấp!
TÔI PHẢI PHẢN CÔNG!
......................................................................................... * NHỮ - VĂN - ÚY
 
.......... 1)
.......... Lời nói đầu: Mặc dù có thể nói tôi là người biết khá nhiều về nhà khoa học gia MAI THANH TRUYẾT, cả về khả năng và tinh thần yêu nước cuả ông; gần 40 năm trước, nếu chiến sự  ở Việt Nam không càng ngày càng leo thang dữ dội thì giữa chúng tôi (MTT-NVU) đã có một sự kết hợp để vưà trực tiếp giải quyết vấn nạn rác trong tương lai cho Sài Gòn, vừa góp phần phát triển kinh tế đất nước.
.......... Một nhà máy chế tạo phân bón hữu cơ (mà nguyên liệu chính là rác gia dụng chế biến) đã được chuẩn bị xong trên một diện tích tổng thể là 31 mẫu tây (ha) ở ngay khu tứ giác về bên tay phải từ hướng Bà Qụẹo đi lên Hốc Môn, một cạnh cuả chiều dài là con kinh THAM LƯƠNG và cạnh kia song hành là con đường băng từ Tham Lương sang CHỢ CẦU. Diện tích khai thác ban đầu là 7 ha, đã ban mặt bằng và xây xong phần nhà máy cơ bản.
.......... Nhà máy này, nguyên liệu cuả "đầu vào" là giải quyết rác thu gom 1/3  phiá Tây  và Tây Bắc Sài gòn (gồm cả quận Tân Bình). Thị trường tiêu thụ sản phẩm  cuả "đầu ra" là các nhà nông canh tác rau tươi, ngũ cốc, cây trái ở Tân Bình - Lái Thiêu -Hốc Môn - Hậu Nghiã; kéo dài lên tới Tây Ninh.
.......... Trong tương lai, để hoàn tất kế hoạch, sẽ thành lập 2 nhà máy tương tự: một cho miền Đông Sài Gòn, một cho miền Tây.
.......... Nhìn tổng thể chương trình, hoạt động được cắt "chia 3 chân vạc" giảm thiểu sự "chi" rất nhiều; nhất là sự thu gom rác , các xe chuyên chở không phải "biểu diễn" một màn trình diễn rác di từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam Sài gòn khắp Sài gòn. Cũng thế, thành phẩm ở vùng nào phân phối thẳng cho nhu cầu vùng đó; giá thành vì thế cũng giảm đi khá nhiều.
.......... Nhờ có dịp mật thiết làm việc với nhau từ ngày đó; công việc và giao dịch đã gắn chúng tôi gần nhau; vì thế, như trên đã nói, "tôi hiểu khá nhiều" về Ông!
.......... Trong một nửa quãng đời ở hải ngoại, hai người ở cách nhau nưả trái đất; công việc làm ăn sinh sống không có gì liên hệ, vì thế, sự gặp gỡ thân hữu hầu như không có; nhưng hầu như  những bài viết về nghiên cứu chuyên môn cuả TS  MAI THANH TRUYẾT tôi đều có đọc và về phiá người bạn xưa đối với tôi cũng thế!
.......... Theo rõi công việc chuyên môn cuả ông thành công vẻ vang nơi nước người và nhất là ông vẫn canh cánh ở bên lòng hoài bão phục vụ cho dân tộc (a), lòng qúy mến người bạn xưa cuả tôi càng thêm sâu đậm.
.......... Thế rồi có thể nói gần như tôi bàng hoàng cả người khi được đọc trên Internet có một âm mưu rộng lớn và thâm hiểm "bề" ông MAI THANH TRUYẾT, nhằm hãm hại nhà khoa học này hơn là mục đích cao cả cuả sự tranh luận để tìm ra sự thật nhằm loại trừ một con sâu ra khỏi rổ rau đang chuẩn bị nấu canh!
.......... Như tôi đã thưa trước với công luận nhiều lần và ngày nay xin nhắc lại với niềm tự hào; vì khả năng "kiến thức trường học" cuả tôi rất hạn chế nên tôi rất yếu kém về những lãnh vực chuyên khoa và xin "dựa cột đứng nghe" đúng như lời tiền nhân đã dạy "biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cộtmà nghe". Nhưng về "kiến thức trường đời", tôi kiêu hãnh với những gì mà tôi có, và đã nhiều lần phát biểu "Ai sao tôi vậy"; sự thực đã chứng minh rõ ràng ngay trên Intertnet: một bảng phong thần dài dặc các tay "kiến thức trường học" cuả tà giáo (nào là tiến sĩ này, bác sĩ nọ, thạc sĩ kia v... v...) đã là những "tẩu tướng" dưới tay tôi (tiêu biểu là băng "tứ bọ"; bọ hung Tiến sĩ TRẦN CHUNG NGỌC, bọ chó GS sử nô NGUYỄN MẠNH QUANG, bọ ngựa BS (?) NGUYỄN THỊ THANH, bọ xít VÕ LONG TRIỀU).
.......... Với sự hiểu biết "cuả trời dành cho" đó, tạm gác vấn đề chuyên môn về hoá học sang một bên, chỉ một cái nhìn bằng một nưả con mắt tôi đã nhận ra chân tướng cuả những kẻ tấn công TS MAI THANH TRUYẾT
.......... Tôi phải nhập cuộc; không phải với một lý do nhỏ nhặt là yểm trợ cho một người bạn; mà đẹp đẽ hơn là một nhiệm vụ và trách nhiệm phải làm cho sạch ô uế nơi diễn đàn -nói riêng- và xã hội bớt rác rưởi độc hại  -nói chung-; một ân huệ mà trước đây tôi đã được thưà hưởng và được học nơi cố Chuẩn Tướng Tư Lệnh CSQG TRẦN VĂN HAI (b) , nay tôi trả lại cho xã hội; dùng ngòi bút cuả người lính xung kích già làm tất cả những gì trong khả năng, không để những nhân vật như Tiến sĩ MAI THANH TRUYẾT bị phường lưu manh ám hại!
...............................................................
CHÚ THÍCH: (a) TS MAI THANH TRUYẾT không từ bỏ một cơ hội nào mà không lột mặt nạ bè lũ giặc "mán sơn đầu đỏ" dùng âm mưu xảo quyệt, biến khoa học cao đẹp thành một.... phương tiện để đi ăn xin có, tống tiền có, đục khoét có! Mặc dù ông cũng như những thân hữu cùng chiến tuyến với ông biết rằng với bọn người có đầy đủ điều kiện xếp chúng vào  loại là dã nhân đó, không có một phương tiện bẩn thỉu nào làm cho chúng chùn tay; kể cả khốn kiếp đến mức "ngậm máu phun người".
...................... (b) Khi tôi hãy còn là một hội viên Hội đồng xã đã bị Thiếu Tá Tiểu khu Phó tỉnh Bình Dương dùng quyền lực hãm hại. Chuẩn Tướng TRẦN VĂN HAI (khi đó ông còn đeo lon ĐẠI TÁ) đã áp dụng luật pháp để bảo vệ (kể cả biệt phái cận vệ võ trang), với quan niệm cuả con chim đầu đàn CSQG thời đó là "Cảnh sát phải bảo vệ tài nguyên qúy cho quốc gia"
 

__._,_.___

Dược Thảo

Từ Thuốc Bắc, Thuốc Nam, Thuốc Dân Tộc…đến Dược Thảo.

 

 

Những danh từ dùng cho tựa đề của bài viết nầy đều có cùng chung một định nghĩa và ứng dụng tùy theo không gian và thời gian. Thuốc Bắc ở Việt Nam dùng để chỉ các loại thuốc dùng cây, lá, rễ, củ, hột, v.v… đã được biến chế do một Đông y sĩ người Trung Quốc khám bịnh và cho toa. Còn thuốc Nam, tương tự như thuốc Bắc, nhưng do một Đông y sĩ người Việt Nam đãm nhận. Các loại cây lá được biến chế trong thuốc Nam tương đối đơn giản như phơi khô hoặc sấy khô, và cân lượng cũng không có yêu cầu chính xác như một nấm lá khô, một muỗng bột rễ cây…thay vì một chỉ …, ba ly… như ở thuốc Bắc.

 

Người được chẩn bịnh sau khi nhận thuốc xong, mang về nấu trong một cái nồi đất với (thông thường) ba chén nước và đun sôi. Khi nước "xắc" lại còn tám phân, bịnh nhân "chắt" nước ra, để nguội và uống. Một thang thuốc có thể uống được nhiều lần, thường là hai lần.

 

Thuốc dân tộc chỉ được dân miền Nam nghe đến kể từ sau 30 tháng tư năm 1975 do miền Bắc xâm nhập vào. Thuốc dân tộc không cần có Đông y sĩ chẩn mạch như thuốc Bắc và thuốc Nam. Thuốc đã được bào chế sẳn cũng như được "nhà nước' công bố công dụng của từng loại cây, lá, hay cũ... dùng để chữa trị một bịnh nào đó. Và dân chúng cứ thế mà dùng, cho dù có hiệu nghiệm hay không.

 

Nếu chúng ta đã từng sống trong xã hội Việt Nam khoảng năm năm đầu sau khi nước nhà được "thống nhất", chắc ai cũng còn nhớ cây xuyên tâm liên. Thực sự, người viết chưa từng thấy cây nầy cũng như cung cách chữa trị như thế nào, và trị bịnh gì? Nhưng, trong giai đoạn trên, mỗi lần đi khám bịnh ở phòng y tế phường hay khóm, đều được cán bộ chữa trị bằng xuyên tâm liên. Người viết cũng đã từng nghe nhiều câu chuyện kỳ thú về xuyên tâm liên do một anh bộ đội vượt Trường sơn kể như sau:" nếu vợ chồng không có con trong một thời gian dài, đôi vợ chồng nầy sẽ được cán bộ hướng dẫn là mỗi khi "ăn nằm" với nhau, chỉ cần cột một dây xuyên tâm liên qua bụng người vợ. Thế là sẽ có con sau đó ngay!"

 

Còn câu chuyện dài dược thảo ở Hoa Kỳ thể hiện "tính khoa học" còn cao hơn nữa, nhất là trong cộng đồng Việt Nam. Các Đông y sĩ ở đây, nói chung đều mang  (được mang, hay tự mang) những danh hiệu rất oai là Bác sĩ Đông y ( Oriental Doctor – OD) hay Tiến sĩ Đông Y (Ph.D of Oriental Medicine), cũng như nhiều danh xưng nổ khác nữa. Thật ra, ở đây cũng căn cứ vào rễ, thân, củ, lá, hột như thuốc Bắc và thuốc Nam, nhưng có thể được thêm vào một số dạng thuốc "Tây" tức là các hóa chất làm nguyên liệu để bào chế dược phẩm (drug). Sau đó, tất cả được chế biến có tính cách hoàn chỉnh hơn thuốc Bắc và thuốc Nam đã kể ở phần trên, nghĩa là các "dược phẩm" nầy có hình thức giống như các loại thuốc của y khoa hiện đại như dạng bột, viên, hay viên bọc nhựa, nước, hay dạng thuốc tể v.v…

 

Trong phần trình bày sau đây, chúng tôi sẽ bàn về định nghĩa, nguồn gốc, cách dùng và những vấn nạn có thể xảy ra sau khi dùng thuốc dược thảo. Danh từ "thuốc" dùng ở đây để chỉ tất cả các loại cây, cỏ, rễ, thân, lá, củ, hột… chứ không nói đến những hóa chất khác được gian thương cho thêm vào để làm tăng một vài đặc tính trị liệu mà không cần lưu tâm đến những di hại về sau, như arsenic, đồng, chì, thủy ngân, selenium, thậm chí vàng (gold) nữa.

 

 

Nguồn gốc và định nghĩa dược thảo

 

Theo quan điểm của các nhà khoa học Hoa Kỳ, khoa dược thảo chỉ có thể được xem như là một ngành trị liệu bổ túc (complementary therapy), chuyên dùng các loại cây hay hóa chất ly trích từ cây. Do đó, đây là một ngành y khoa riêng biệt đặt trọng tâm chữa trị bằng cây cỏ có trong thiên nhiên. Và danh từ herbalism dùng để chỉ hệ phái dùng cây cỏ để trị liệu hầu hết các bịnh gần giống như tất cả những bịnh liệt kê trong ngành y khoa hiện đại.

 

Nguồn gốc của ngành y khoa dược thảo được xem như xuất hiện từ khi có sự hiện diện của con người trên quả địa cầu. Và nếu đi xa hơn nữa, nguồn gốc nầy đã có trước khi loài người xuất hiện (qua sự tiến hóa từ khỉ). Giống khỉ Chimpanzees đã biết ăn một loại lá cây đặc biệt để diệt các ấu trùng trong bao tử. Loài nai đã biết truy tìm các lá dùng để kích thích tâm thần (psycho-active). Một số thú vật khác cũng đã biết tìm đến nấm như penicillin và các loại nấm chống nấm (antifungals) để trị liệu hay tiêu diệt các loại bò chét ngoài da. Sau đó, con người mới biết áp dụng trong trị liệu như những liều thuốc kháng sinh.

 

Ngành dược thảo đúng nghĩa đã góp phần không nhỏ vào việc trị liệu bổ túc và song hành với ngành y khoa hiện đại. Thuốc phiện (morphine) được trích ly từ cây thuốc phiện (poppies), aspirin từ cây liễu, và digoxin dùng để chữa trị nhịp tim đập không đều đến từ cây đuôi chồn (foxglove).

 

Ngành dược thảo không ngừng ở mặt trị liệu từng bộ phận hay từng bịnh mà còn có "tham vọng" chữa trị toàn cơ thể con người, và "khuyến khích" cơ thể tự "hoàn chỉnh" hay điều chỉnh qua thuốc cây cỏ. Các nhà chuyên môn của ngành nầy nghĩ rằng, những hóa chất trong một tập hợp cây cỏ sẽ làm cân bằng cơ thể và tạo nên những phản ứng hổ tương để chữa trị toàn thể con người.

 

 Có thể nói ngành y khoa cây cỏ ngày nay phát triển rất nhanh trên toàn thế giới. Mức tiêu thụ ước tính khoảng 23 tỷ Mỹ kim trong năm 2004 căn cứ vào báo cáo của cuộc triển lãm quốc tế lần thứ hai về dược thảo. Hiện tại, có khoảng 34% người Hoa Kỳ lớn tuổi đã hơn một lần viếng các Bác sĩ Đông y dược vào năm 1990.

 

 

Vấn đề an toàn của dược thảo

 

Có một khái niệm hết sức thông thường và tự nguyện của người đời là, dược thảo nghĩa là cây cỏ (herbal), là tự nhiên (natutal), và là an toàn (safe); vì vậy, dược thảo ao toàn hơn các loại thuốc bằng hoá chất hay tổng hợp hóa chất do ngành y dược khoa hiện đại bào chế.

 

Do có suy nghĩ trên, cho nên một số người Hoa Kỳ và dĩ nhiên, một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại lẫn thường dùng các loại thuốc cây cỏ trong công việc phòng bịnh và trị bịnh. Đối với dược thảo, các nhà sản xuất không cần phải khai báo với Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) về cơ cấu của thuốc, cũng như tính hiệu nghiệm, cùng phản ứng phụ, và mức an toàn của thuốc đặc chế. FDA cũng không đòi hỏi thông tin cần được liệt kê trên nhản hiệu của các lọ thuốc. Do đó, kết quả dù tích cực hay tiêu cực, hay ảnh hưởng dài hạn lên cơ thể hoàn toàn không được biết đến và cũng không có một cuộc nghiên cứu dài hạn nào để thẩm định mức an toàn của thuốc.

 

Thí dụ như nước trích từ cây nhàu (gingko biloba) đã đưộc quảng cáo rầm rộ trong cộng đồng Việt Nam trước đây, và hiện nay vẫn còn lai rai…là có khả năng trị bá bịnh. Có mấy ai biết được, qua nghiên cứu khoa học, phản ứng của thuốc nầy có thể gây ra hiện tượng chảy máu bên trong cơ thể, và có thể gây ra phản ứng với các yếu tố làm chống đông máu có sẳn trong máu của con người.

 

Mặc dù Luật Dietary Supplement Health & Education Act năm 1994 cho phép các loại thuốc thực vật trên được ghi trong nhản hiệu hướng dẫn cách dùng và tính hiệu nghiệm của thuốc. Nhưng trên thực tế ngoài thị trường, các nhản hiệu trên hoàn toàn không ghi rõ vế cách định bịnh, chữa trị hay phòng bịnh gì cả!

 

Thêm một điều nữa là dược thảo không bị đòi hỏi phải cung cấp tỷ lệ các thành phần hóa học cấu tạo ra thuốc, cũng như tính tinh khiết (purity) như các loại thuốc dành cho ngành y khoa hiện đại. Do đó hiệu quả của cùng một loại thuốc, cùng một nhản hiệu có thể không giống nhau vì do những tạp chất có trong thuốc thay đổi trong lúc sản xuất như phấn hoa, chất gây dị ứng cho cơ thể, bào tử của hoa v.v.. Và tỷ lệ khác biệt nầy có thể thay đổi tính hiệu nghiệm của thuốc, đôi khi gây ra những phản ứng bất lợi cho bịnh nhân. Do đó, chúng ta có thể thấy nhiều nhản hiệu chỉ là những con số do nhiều nhà "bào chế" khác nhau tuy có cùng một cung cách trị liệu.

 

Mặc dù một số dược thảo có thể trợ giúp giải quyết một số bịnh của con người, nhưng điều đó không có nghĩa là dược thảo đạt được mức an toàn. Theo khuyến cáo của ngành y dược khoa tân tiến, phụ nữ đang mang thai không nên dùng dược thảo vì có thể có phản ứng bất ngờ và có thể bị trụy thai.

 

Đối với các loại thuốc trong ngành dược khoa, dựa vào hóa chất tổng hợp hay một số trích ly từ cây cỏ, hay nấm trong thiên nhiên, nhưng các thuốc nầy đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, với cân lượng chính xác, và được thí nghiệm lên thú vật hay con người trong một thời gian dài trước khi tung ra thị trường. Và dĩ nhiên, những thuốc trên cũng có thể có những phản ứng phụ hay phản ứng khi dùng khi dùng nhiều loại thuốc khác nhau trong cùng một thời điểm. Điều nầy cũng đã được liệt kê trên nhản thuốc hay được bác sĩ khám bịnh khuyến cáo và lưu ý bịnh nhân khi kê toa.

 

Tuy nhiên, điều trên đây không xảy ra đối với dược thảo về các điều kiện bào chế thuốc. Hiện tại, hầu hết các sản phẩm dược thảo đều nằm ngoài tầm kiểm soát của những luật lệ quy định cho ngành y khoa. Điều đó có nghĩa là không có gì bảo đảm cho sự hiệu nghiệm của thuốc, cũng như thành phần cùng cân lượng của những chất hoá học cấu tạo ra thuốc. Ngay cả nhà bào chế thuốc cũng không đạt được tính chính thống của ngành, mỗi nhà bào chế (sản xuất) theo từng trường phái dược thảo khác nhau. Thí dụ thuốc nhàu của nhà bào chế A sẽ khác thuốc của của nhà bào chế B. Một thí dụ khác điển hình là nếu bạn bị bịnh về tim, bịnh viêm yết hầu (angina), cao áp huyết, hay chứng đau mắt (glaucoma), một số dược thảo dùng để trị liệu các chứng bịnh kể trên sẽ đưa đến những phản ứng có thể làm chết người đối với bịnh nhân bị tiểu đường loại I hay bị chứng phong giựt (epilepsy). Thêm nữa, các dược thảo quảng cáo cho những bà mãn kinh nguyệt và hay bị chứng nóng mặt (hot flashes) là các loại cỏ và rể của cây Black Cohosh, Black Snake, Bugwort, Rattle weed. Thực sự nếu dùng các loại dược thảo kể trên, các bà có thể giảm chứng nóng mặt lúc ban đầu nhưng hậu quả sẽ phải trả là một giá rất đắt, đó là bịnh ung thư. Nên nhớ, nếu không dùng thuốc chi cả, chứng nóng mặt sẽ biến mất sau một thời gian.

 

Từ những nhận định trên, câu hỏi được đặt ra là, chúng ta có nên dùng dược thảo không?

 

Hiệu năng của dược thảo

 

Đối với ngành y dược khoa, một thuốc mới sắp ra sẽ phải được kiểm chứng qua nhiều giai đọan như vừa kể trên, điều đó không những bảo đảm được tính hiệu nghiệm và an tòan của thuốc, mà còn đi xa hơn nữa là liệu thuốc mới vừa được tung ra thị trường có an toàn hơn (safer), và hiệu nghiệm hơn khi so sánh với các loại thuốc đã sản xuất trước kia và có cùng một mục đích trị liệu.

 

Nhưng đối với dược thảo, hòan tòan không có một nghiên cứu nào cả mà chỉ dựa vào cãm tính (intuition) nhiều hơn. Do đó, nhiều khi bịnh nhân phải trả một chi phí cao cho dược thảo mà không nhận được kết quả trị liệu nào cả, không kể đến những phản ứng phụ có thể xảy ra.

 

Để trả lời câu hỏi trên, quan điểm của một số nhà y dược học là:

 

- Một số dược thảo được xem như là một loại thức ăn bổ túc (food additive) như     các loại sinh tố thiên nhiên và vô hại cùng những loại muối khoáng, cũng như không ảnh hưởng và phản ứng phụ cho người tiêu dùng.ï

- Ủy ban An toàn Y khoa (Committee on Safety of Medicine) khuyến cáo bịnh nhân cần phải tham khảo với bác sĩ về các loại dược thảo đang dùng trước khi được giải phẩu, vì có rất nhiều loại dược thảo dị ứng với hóa chất gây mê, chống đông máu, và những thuốc xử dụng trong và sau khi giải phẩu.

- Còn Viện Quốc gia Sưu tầm Dược thảo (National Institute of Medical Herbalists) khuyến cáo nhà dược thảo cần phải theo dõi từ 3 đến 5 năm ảnh hưởng lên con người của dược thảo đã được bào chế trước khi tung ra thị trường.

 

Vì những lý do trên cùng những hạn chế thông tin về dược thảo, lời khuyên hay nhất cho người sử dụng dược thảo là cần phải tham khảo bác sĩ gia đình và những bác sĩ chuyên môn về dược thảo (herbal practictioner) trước khi dùng.

 

Cũng cần nên tham vấn nhà dược thảo trị liệu để họ có thể hiểu rõ hơn điều kiện sức khoẻ tổng quát của bịnh nhân, cùng các loại thuốc đã hay đang xử dụng, cuộc sống thường nhật của bịnh nhân và lịch sử về sức khoẻ gia đình. Và sau một thời gian trị liệu bằng dược thảo, bịnh nhân cần phải đến tham khảo thêm để có thể chận đứng được những phản ứng phụ kịp lúc nếu có.

 

Sau cùng, Viện Sức khoẻ Quốc gia (National Institute of Health) có một mạng lưới tập trung về những nghiên cứu liên quan đến dược thảo cũng cần được tham khảo thêm qua Trung tâm Quốc gia về Y khoa Bổ túc và Tương ứng (National Center for Complementary & Alternative Medicine).

 

Thay lời kết

 

Ngày hôm nay, ngoài những bữa ăn chính, nhiều người cần phải có thức ăn dinh dưỡng bổ túc (dietary supplements) tùy theo điều kiện sức khỏe của cơ thể cả về vật chất lẫn tâm sinh lý. Do đó, sử dụng dược thảo cũng phụ giúp một phần nào trong việc trị liệu với điều kiện là bịnh nhân cũng như người chẩn đoán bịnh và cho thưốc cần hiểu rõ căn bịnh và nhu cầu cần phải có dược thảo bổ túc thêm cho việc trị liệu.

 

Nhưng trên thực tế, nhất là trong cộng đồng người Việt, đặc biệt tại Hoa Kỳ, dược thảo đã trở thành một kỹ nghệ béo bở cho rất nhiều người. Ngành dược thảo ở đây hoàn tòan độc lập, và hoàn toàn tùy thuộc vào người bào chế (?) và hầu như những nhà bào chế Việt Nam là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, không nơi nào giống nơi nào.

 

Qua truyền thông như phát thanh, báo chí, truyền hình, chúng ta hàng ngày nghe ra rã những quảng cáo rất nhiều loại thuốc dược thảo dùng để trị liệu nhiều bịnh khác nhau, cũng như trị "bá bịnh". Nhiều khi cùng một nguồn gốc dược thảo, những nhà bào chế đã trình bày những phương cách trị liệu và liều lượng khác nhau. Chúng ta dễ dàng kiểm chứng điều nầy qua các quảng cáo về thuốc nhàu Noni, thuốc cây lô hội v.v.. .

 

Thậm chí, có những nhà bào chế không biết lấy từ nguồn nguyên liệu nào gọi là sữa ong chúa rồi chia ra thành lọ thuốc mang những con số vô tình khác nhau như: 7, 9,14, 26 v.v.. .để trị bách bịnh.

 

Giã sử như sữa ong chúa có tính chất trị bá bịnh đúng như quảng cáo, mỗi người trong chúng ta thử đặt một câu hỏi nhỏ cho nhà bào chế nầy là, làm thế nào để có đủ lượng sữa ong chúa để sản xuất hàng trăm ngàn chai lọ thuốc như trên? Nên nhớ, mỗi tổ ong chỉ có một con ong chúa và khả năng chứa sữa (?) của một con ong chúa không đạt được 0.05 cc, tức nhỏ hơn một giọt nước. Người viết không rõ người bào chế định nghĩa chữ "sữa" như thế nào, nhưng qua tài liệu tham khảo đọc được, Honey Bee Venom, tức là nọc của loài ong mật có thể trị được chứng đau cơ sơ hóa tức là Fibromyalgia mà thôi!

 

(Ghi chú: Sau khi bài viết được tung ra trên các Diễn đàn và báo chí, một "Ông Bác sĩ chuyên trị" dược thảo quảng cáo trên các Đài phát thanh địa phương ở Bolsa, đã giải thích tuy gọi là sữa ong chúa nhưng thực sự là dung dịch do các ong thợ mang về để nuôi ong chúa…Như vậy từ trước đến giờ sao không giải thích cho bà con biết, mà để đến bây giờ mới đính chính? Rồi các "bác sĩ chuyên trị" sữa ong chúa thi nhau giải thích trên đài ra rã hàng ngày. Thậm chí có Ông MD thực sự ở Hoa Kỳ còn thêm tên khoa học của "sữa ong chúa" để bán dược phẩm do…chính Ông ta chế ra…)

 

Cộng đồng người Việt chúng ta ở hải ngoại quá dễ dãi để cho gian thương lợi dụng mà không có một phản ứng nào cả, và nạn nhân đầu tiên là những người ăn tiền già, dễ tin vào những lời quảng cáo bịp bợm cùng những mánh khóe "góp ý" của những "cò mồi" đã dùng thuốc và hết bịnh trong một thời gian ngắn. Cộng thêm một số đồng bào khác vì thiếu ý thức khoa học thường thức, cũng vì dễ tin và nhẹ dạ cho nên vô hình chung đã tiếp tay cho việc làm bất chính trên.

 

Thiết nghĩ, ngày hôm nay, đã đến lúc chúng ta cần góp bàn tay để làm sạch cộng đồng, ý thức bổn phận dân sự của chính mình để cho những cung cách làm ăn không đứng đắn tồn tại trong cộng đồng nữa. Nên nhớ, ảnh hưởng và các phản ứng phụ khi dùng hoá chất không đúng cách có trong dược thảo sẽ diễn ra sau vài thập niên sử dụng chứ không phải là một ảnh hưởng trong một thời gian ngắn.

 

Khẩn mong Quý bà con lưu ý đến những điều trình bày trên đây.

 

Mai Thanh Truyết

Hiệu đính 3/24/2010

 

Ghi chú: Bài trích dẫn trên Việt Báo ngày 3/22/2010 dưo17i đây cho chúng ta thấy cung cách làm ăn gian dối ờ đất nước Hoa Kỳ nầy có ngày cũng sẽ bị đưa ra ánh sang và bị trừng trị.

 

Ông Gốc Việt Thú Tội Bán Dược Thảo Dỏm, Đền 17 Triệu   Việt Báo Thứ Hai, 3/22/2010, 12:00:00 AM

SPRINGFIEL, MO. (VB) -- Bán dược thảo dỏm, nhiều người Mỹ gốc Việt bị bắt ra tòa đã thú tội và đồng ý sẽ bổi thường chính phủ liên bang 17,421,059 đô la.
Bản tin Consumer Affairs hôm 21-3-2010 loan tin rằng ông Charles Thảo, 42 tuổi, đã nhận tội trước chánh án Richard E. Dorr vì âm mưu vi phạt Luật Về Thực Phẩm, Dược Phẩm và Mỹ Phẩm, lừa gạt tiền và rửa tiền -- trong vai trò tiếp thị gian lận thuốc bổ dược thảo bán qua Internet với quảng cáo sai trái là dược thảo phụ trợ này có thể ngăn ngừa, chữa trị nhiều bệnh.
Thảo đồng ý giảỉ thể cơ sở kinh doanh Nutrapha Research, LLC, và đồng ý không tái cấu trúc công ty dưới bât1 kỳ tên nào cho kinh doanh tương tự. Nutrapha và một công ty trước đó thuộc sở hữu của Thảo là Medycinex, chuyên mua dược thảo thuốc phụ trợ và rồi bán lại qua Internet.
Thảo thú nhận rằng ông và vợ, đồng phạm Mai Lor, 25 tuổi, cũng cư dân Springfield, đã hợp đồng với đồng phạm là Tony T. Phạm, 42 tuổi, cư dân Grand Rapids, Mich., để tiếp thị và phân phối thuốc  dược thảo này.
Các bị can  đã quảng cáo rằng 6 loại thuốc của họ bán qua Internet được chứng minh quan thử nghiệm bệnh viện là ngăn ngừa và chữa trị bệnh tiểu đường, hội chứng đau ruột, bệnh gout, bệnh cao cholesterol, bệnh cao huyết áp (cao máu), bệnh heartburn  (đau ngực), và bệnh tiêu chảy.
Thực tế, không dược thảo nào được cho thử nghiệm. Techmedica, xuyên qua Phạm, điều hành nhiều trang web sử dụng kỹ thuật mirror. Khi điều tra viên từ dàn máy điện toán cuả Sở FDA vào xem các trang web do Phạm điều hành, thì trang web hiện lên với ngôn ngữ phù hợp với Luật liên bang  về Luật Về Thực Phẩm, Dược Phẩm và Mỹ Phẩm.
Nhưng nếu sử dụng máy điện toán mà số IP không dò ra từ dàn máy FDA, thì trang web quảng cáo thuốc này nói rằng dược thảo sẽ chữa trị và ngăn cản các bệnh trên.
Thảo đồng ý bồi thường chính phủ 17.4 triệu đô la, là số tiền lời bán dược thảo này, 3 ngôi nhà ở Springfield, 3 xe hơi và tài khoản trong nhiều trương mục ngân hàng.
Theo luật, Thảo còn đối diện với bản án có thể là 20 năm tù liên bang không parole (ra sớm để theo dõi) về tội rửa tiền, và tới 5 năm tù liên bang không parole về các tội khác.

 

Một bài học: BS Dương QUỳnh Hoa

Tiếc Cho Một Người Lầm Lỡ Vừa Nằm Xuống

Thân tặng tất cả những người Việt còn có tấm lòng yêu quê hương.

 

Bà Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa (DQH) vừa nằm xuống ngày thứ bảy 25–2–2006 tại

Sài Gòn, và cũng vừa được hỏa táng vào ngày thứ ba 28/2. Báo chí trong nước cho

đến hôm nay, không hề loan tải tin tức trên. Đài BBC có phỏng vấn Ông Võ Nhơn Trí

ở Pháp về tin nầy và phát đi ngày 28/2.

Sự im lặng của Việt Nam khiến cho người viết thấy có nhu cầu trang trãi và chia xẻ

một số suy nghĩ về cái chết của BS DQH để từ đó rút ra thêm một kinh nghiệm sống về tính chất "chuyên chính vô sản" của những người cầm quyền tại Việt Nam hiện tại.

Ô. Bà DQH và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam

BS DQH là một người sống trong một gia đình theo Tây học, có uy tín và thế lực trong giới giàu có ở Sài Gòn từ thập niên 40. Cha là GS Dương Minh Thới và anh là LS Dương Trung Tín; gia đình sống trong một biệt thự tại đường Bà Huyện Thanh Quan xéo góc Bộ Y tế (VNCH) nằm trên

đường Hồng Thập Tự. LS Tín đã bị ám sát tại Đà Lạt trong đó cái chết của ông cũng không được soi sáng, nhưng đa phần có nhiều nghi vấn là do lý do chính trị vì ông có khuynh hướng thân Pháp thời bấy giờ.

Về phần Bà Hoa, được đi du học tại Pháp vào cuối thập niên 40, đã đỗ bằng Bác sĩ Y khoa tại Paris và về lại Việt Nam vào khoảng 1957 (?). Bà có quan niệm cấp tiến và xã hội, do đó Bà đã gia nhập vào Đảng CS Pháp năm 1956 trước khi về nước.

Từ những suy nghĩ trên, Bà hoạt động trong lãnh vực y tế và lần lần được móc nối và gia nhập vào Đảng CSVN. Tháng 12/1960, Bà trở thành một thành viên sáng lập của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam VN dưới bí danh Thùy Dương, nhưng còn giữ bí mật cho đến khi Bà chạy vô "bưng" qua ngõ Ba Thu –Mõ Vẹt xuyên qua Đồng Chó Ngáp. Ngay sau biến cố Tết Mậu Thân, tin tức trên mới được loan tải qua đài phát thanh của Mặt Trận.

Khi vào trong bưng, Bà gặp GS Huỳnh Văn Nghị (HVN) và kết hôn với GS. Trở qua GS Huỳnh Văn Nghị, Ông cũng là một sinh viên du học tại Pháp, đỗ bằng Cao học (DES) Toán. Về VN năm 1957, ông dạy học tại trường Petrus Ký trong hai năm, sau đó qua làm ở Nha Ngân sách và Tài chánh. Ông cũng có tinh thần thân Cộng, chạy vô "bưng" năm 1968 và được kết nạp vào đảng sau đó.

Do "uy tín" chính trị quốc tế của Bà Hoa thời bấy giờ rất cao, Mặt Trận, một lá bài của CS Bắc Việt, muốn tận dụng uy tín nầy để tạo sự đồng thuận với chính phủ Pháp hầu gây rối về mặt ngoại giao cho VNCH và đồng minh Hoa Kỳ. Từ những lý do trên, Bà Hoa là một người rất được lòng Bắc Việt, cũng như Ông Chồng là GS HVN cũng được nâng đở theo. Vào đầu thập niên 70, Ông được chuyển ra Bắc và được huấn luyện trong trường đảng. Tại đây, với một tinh

thần thông thoáng dân tộc, cộng thêm nhiều lý luận toán học, Ông đã phân tích và chứng minh những lý thuyết giảng dạy ở trường đảng đều không có căn bản lý luận vững chắc và Ông tự quyết định rời bõ không tiếp tục theo học trường nầy nữa.

Nhưng chính nhờ uy tín của Bà DQH trong thời gian nầy cho nên ông không bị trở ngại về an ninh. Cũng cần nên nói thêm là ông đã từng được đề cử vào chức vụ Bộ trưởng Kinh tế nhưng ông từ chối.

Ô.B DQH và Đảng Cộng sản VN

Chỉ một thời gian ngắn sau khi CS Bắc Việt giải tán Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, Ô Bà lúc đó mới vở lẽ ra. Về phần Ô HVN, ông hoàn toàn không hợp tác với chế độ. Năm 1976, trong một buổi ăn tối với 5 người bạn thân thiết, có tinh thần "tiến bộ", Ông đã công khai tuyên bố với các bạn như sau:"Các "toi" muốn trốn thì trốn đi trong lúc nầy. Đừng chần chờ mà đi không kịp. Nếu ở lại, đừng nghĩ rằng mình đã có công với "cách mạng" mà "góp ý" với đảng". Ngay sau đó, một trong người bạn thân là Nguyễn Bá Nhẫn vượt biên và hiện cư ngụ tại Pháp. Còn 4 người còn lại là Lý Chánh Trung (giáo sư văn khoa Sài Gòn), Trần Quang Diệu (TTKý Viện Đại học Đà Lạt), Nguyễn Đình Long (Nha Hàn..g không Dân sự), và một người nữa người viết không nhớ tên không đi. Ông Trung và Long hiện còn ở Việt Nam, còn ông Diệu đang cư ngụ ở Canada.

Trở lại BS DQH, sau khi CS chiếm đóng miền Nam tháng 4/1975, Bà Hoa được "đặt để" vào chức vụ Tổng trưởng Y tế, Xã hội, và Thương binh trong nội các chính phủ. Vào tháng 7/75, Hà Nội chính thức giải thể chính phủ Lâm thời và nắm quyền điều hành toàn quốc, chuyển Bà xuống hàng Thứ trưởng và làm bù nhìn như Nguyễn Hữu Thọ, Nguyễn

Thị Bình, Nguyễn Thị Định… Chính trong thời gian nầy Bà lần lần thấy được bộ mặt thật của đảng CS và mục tiêu của họ không phải là phục vụ đất nước Việt Nam mà chính là làm nhiệm vụ của CS quốc tế là âm mưu nhuộm đỏ vùng Đông Nam Á.

Vào khoảng cuối thập niên 70, Bà đã trao đổi cùng Ô Nguyễn Hữu Thọ:"Anh và tôi chỉ đóng vai trò bù nhìn và chỉ là món đồ trang sức rẻ tiền cho chế độ. Chúng ta không thể phục vụ cho một chế độ thiếu dân chủ và không luật lệ. Vì vậy tôi thông báo cho anh biết là tôi sẽ trả lại thẻ Đảng và không nhận bất cứ nhiệm vụ nào trong chính phủ cả". Đến năm 1979, Bà chính thức từ bỏ tư cách đảng viên và chức vụ Thứ trưởng. Dĩ nhiên là Đảng không hài lòng với quyết định nầy; nhưng vì để tránh những chuyện từ nhiệm tập thể của các đảng viên gốc miền Nam, họ đề nghị Bà sang Pháp. Nhưng sau cùng, họ đã lấy lại quyết định trên và yêu cầu Bà im lặng trong vòng 10 năm.

Mười năm sau đó, sau khi được "phép" nói, Bà nhận định rằng Đảng CS Việt Nam tiếp tục xuất cảng gạo trong khi dân chúng cả nước đang đi dần đến nạn đói. Và nghịch lý thay, họ lại yêu cầu thế giới giúp đỡ để giải quyết nạn nghèo đói trong nước. Trong thời gian nầy Bà tuyên bố :" Trong hiện trạng của Đất Nước hiện tại (thời bấy giờ), xuất cảng gạo tức là xuất cảng sức khỏe của người dân" Và Bà cũng là một trong những người đầu tiên lên tiếng báo động vào năm 1989 cho thế giới biết tệ trạng bán trẻ em Việt Nam ngay từ 9,10 tuổi cho các dịch vụ tình dục trong khách sạn và các khu giải trí dành cho người ngoại quốc do các cơ quan chính phủ và quân đội điều hành.

Sau khi rời nhiệm vụ trong chính phủ, Bà trở về vị trí của một BS nhi khoa. Qua sự quen biết với giới trí thức và y khoa Pháp, Bà đã vận động được sự giúp đở của hai giới trên để thành lập Trung Tâm Nhi Khoa chuyên khám và chữa trị

trẻ em không lấy tiền và Bà cũng được viện trợ thuốc men cho trẻ em Việt Nam suy dinh dưỡng nhất là acid folic và các lọai vitamin. Nhưng tiếc thay, số thuốc trên khi về Việt Nam đã không đến tay Bà mà tất cả được chuyển về Bắc. Bà xin chấm dứt viện trợ, nhưng lại được "yêu cầu" phải xin lại viện trợ vì…nhân dân (của Đảng!). Về tình trạng trẻ con suy dinh dưỡng, với tính cách thông tin, chúng tôi xin đưa ra đây báo cáo của Bà Anneke Maarse, chuyên gia tư vấn của UNICEF trong hội nghị ngày 1/12/03 tại Hà Nội :" Hiện Việt Nam có 5,1 triệu người khuyết tật chiếm 6,3% trên tổng số 81 triệu dân. Qua khảo sát tại 648 gia đình tại ba vùng Phú Thọ, Quảng Nam và Tp HCM cho thấy có tới 24% trẻ em tàn tật dạng vận động, 92,3% khuyết tật trí tuệ, và 19% khuyết tật thị giác lẫn ngôn ngữ. Trong số đó tỷ lệ trẻ em khuyết tật bẩm sinh chiếm tới 72%.

Vào năm 1989, Bà đã được ký giả Morley Safer, phóng viên của đài truyền hình CBS phỏng vấn. Những lời phỏng vấn đã được ghi lại trong cuốn sách của ông dưới tựa đề Flashbacks on Returning to Việt Nam do Random House, Inc. NY, 1990 xuất bản. Qua đó, một sự thật càng sáng tỏ là con của Bà, Huỳng Trung Sơn bị bịnh viêm màng não mà Bà không có thuốc để chữa trị khi còn ở trong bưng và đây cũng là một sự kiện đau buồn nhất trong đời Bà. Cũng trong cuốn sách vưà kể trên, Bà cũng đã tự thú là đã sai lầm ở một khoảng thời gian nào đó. Nhưng Bà không luyến tiếc vì Bà đã đạt được mục đích là làm cho những người ngoại quốc ra khỏi đất nước Việt Nam.

Sau cùng, chúng tôi xin liệt kê ra đây hai trong những nhận định bất hủ của BS DQH là :"Trong chiến tranh, chúng tôi sống gần nhân dân, sống trong lòng nhân dân. Ngày nay, khi quyền lực nằm an toàn trong tay rồi, đảng đã xem nhân dân như là một kẽ thù tiềm ẩn". Và khi nhận định về bức tường Bá Linh, Bà nói:" Đây là ngày tàn của một ảo tưởng vĩ đại".

BS DQH và Vụ kiện Da Cam

Theo nhiều nguồn dư luận hải ngoại, trước khi ký kết Thương ước Mỹ-Việt dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Clinton, hai chính phủ đã đồng ý trong một cam kết riêng không phổ biến là Việt Nam sẽ không đưa vụ Chất độc màu Da cam để kiện Hoa Kỳ, và đối lại, Mỹ sẽ ký thương ước với Việt Nam và sẽ không phủ quyết để Việt Nam có thể gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) trong t ương lai.

Có lẽ vì "mật ước" Mỹ-Việt vừa nêu trên, nên Việt Nam cho thành lập Hội Nạn nhân chất Độc Da cam/Dioxin Việt Nam ngày 10/1/2004 ngay sau khi có quyết định chấp thuận của Bộ Nội vụ ngày 17/12/2003. Đây là một Hội dưới danh nghĩa thiện nguyện nhưng do Nhà Nước trợ cấp tài chính và kiểm soát. Ban chấp hành tạm thời của Hội lúc ban đầu gồm:

- Bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước làm Chủ tịch danh dự;

- Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐND làm Chủ tịch;

- GS,BS Nguyễn Trọng Nhân, nguyên Bộ trưởng Y tế, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam làm Phó Chủ tịch;

- Ô Trần Văn Thụ làm Thư ký.

Trong buổi lễ ra mắt, Bà Bình đã khẳng định rõ ràng rằng:"Chính phủ Mỹ và các công ty sản xuất chất độc hoá học da cam phải thừa nhận trách nhiệm tinh thần, đạo đức và pháp lý. Những người phục vụ chính thể Việt NamCộng Hòa cũ ở miền Nam không được đưa vào danh sách trợ cấp". Theo một bản tin của Thông tấn xã Việt Nam thì đây là một tổ chức của những nạn nhân chất Da cam, cũng như các cá nhân, tập thể tự nguyện đóng góp để giúp các nạn nhân khắc phục hậu quả chất độc hoá học và là đại diện pháp lý của các nạn nhân Việt Nam trong các quan hệ với các tổ chức và cơ quan trong cũng như ngoài nước. Thế nhưng, trong danh sách nạn nhân chất da cam trong cả nước được Việt Nam ước tính trên 3 triệu mà chính phủ đã thiết lập năm 2003 để cung cấp tiền trợ cấp hàng tháng, những nạn nhân đã từng phục vụ cho VNCH trước đây thì không được đưa vào danh sách nầy (Được biết năm 2001, trong Hội nghị Quốc tế tại Hà Nội, số nạn nhân được Việt Nam nêu ra là 2 triệu!). Do đó có thể nói rằng, việc thành lập Hội chỉ có mục đích duy nhất là hỗ trợ cho việc kiện tụng mà thôi.

Vào ngày 30/1/2004, Hội đã nộp đơn kiện 37 công ty hóa chất ở Hoa Kỳ tại tòa án liên bang Brooklyn, New York do luật sư đại diện cho phía Việt Nam là Constantine P. Kokkoris. (Được biết LS Kokkoris là một người Mỹ gốc Nga, đã từng phục vụ cho tòa Đại sứ Việt ở Nga Sô và có vợ là người Việt Nam họ Bùi). Hồ sơ thụ lý gồm 49 trang trong đó có 240 điều khoảng. Danh sách nguyên đơn liệt kê như sau:

- Hội Nạn nhân Chất Da cam/Dioxin Việt Nam;

- Bà Phan Thị Phi Phi, giáo sư Đại học Hà Nội;

- Ông Nguyễn Văn Quý, cựu chiến binh tham chiến ở miền Nam trước 1975, cùng với hai người con là Nguyễn Quang Trung (1988) và Nguyễn Thị Thu Nga (1989);

- Bà Dương Quỳnh Hoa, Bác sĩ, nguyên Bộ trưởng Y tế Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam, và con là Huỳnh Trung Sơn; và

- Những người cùng cảnh ngộ.

Đây là một vụ kiện tập thể (class action) và yêu cầu được xét xử có bồi thẩm đoàn. Các đương đơn tố các công ty Hoa Kỳ đã vi phạm luật pháp quốc tế và tội ác chiến tranh, vi phạm luật an toàn sản phẩm, cẩu thả và cố ý đả thương, âm mưu phạm pháp, quấy nhiễu nơi công cộng và làm giàu bất

chánh để (1) đòi bồi thường bằng tiền do thương tật cá nhân, tử vong, và dị thai và (2) yêu cầu tòa bắt buộc làm giảm ô nhiễm môi trường, và (3) để hoàn trả lại lợi nhuận mà các công ty đã kiếm được qua việc sản xuất thuốc khai quang.

Không có một bằng chứng nào được đính kèm theo để biện hộ cho các cáo buộc, mà chỉ dựa vào tin tức và niềm tin (nguyên văn là upon information and belief). Tuy nhiên, đơn kiện có nêu đích danh một số nghiên cứu mới nhất về dioxin của Viện Y khoa thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Hoa Kỳ, công ty cố vấn Hatfield Consultants của Canada, Bác sĩ Arnold Schecter của trường Y tế Công cộng Houston thuộc trường Đại học Texas, và Tiến sĩ Jeanne Mager Stellman của trường Đại học Columbia, New York.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa cũng như quá trình hoạt động của Bà từ những năm 50 cho đến hiện tại. Tên Bà nằm trong danh sách nguyên đơn cũng là một nghi vấn cần phải nghiên cứu cặn kẽ.

Theo nội dung của hồ sơ kiện tụng, từ năm 1964 trở đi, Bà thường xuyên đi đến thành phố Biên Hòa và Sông Bé (?) là những nơi đã bị phun xịt thuốc khai quang nặng nề. Từ năm 1968 đến 1976, nguyên đơn BS Hoa là Tổng trưởng Y tế của Chính phủ Lâm thời Cộng hòa miền Nam và ngụ tại Tây Ninh. Trong thời gian nầy Bà phải che phủ trên đầu bằng bao nylon và đã đi ngang qua một thùng chứa thuốc khai quang mà máy bay Mỹ đã đánh rơi. (Cũng xin nói ở đây là chất da cam được chứa trong những thùng phuy 200L và có sơn màu da cam. Chất nầy được pha trộn với nước hay dầu theo tỷ lệ 1/20 hay hơn nữa và được bơm vào bồn chứa cố định trên máy bay trước khi được phun xịt. Như vậy làm gì có cảnh thùng phuy rơi rớt!?).

Năm 1970, Bà hạ sinh đứa con trai tên Huỳnh Trung Sơn (cũng có tên trong đơn kiện như một nguyên đơn, tuy đã mất) bị phát triển không bình thường và hay bị chứng co giật cơ thể. Sơn chết vào lúc 8 tháng tuổi.

Trong thời gian chấm dứt chiến tranh, BS Hoa bắt đần bị chứng ngứa ngáy ngoài da. Năm 1971, Bà có mang và bị sẩy thai sau 8 tuần le.ã Năm 1972, Bà lại bị sẩy thai một lần nữa, lúc 6 tuần mang thai. Năm 1985, BS Hoa đã được chẩn bịnh tiểu đường. Và sau cùng năm 1998 Bà bị ung thư vú và đã được giải phẩu. Năm 1999, Bà được thử nghiệm máu và BS Schecter (Hoa Kỳ) cho biết là lượng Dioxin trong máu của Bà có nồng độ là 20 ppt (phần ức).

Và sau cùng, kết luận trong hồ sơ kiện tụng là: Bà BS Hoa và con là nạn nhân của chất độc Da cam.

Qua những sự kiện trên chúng ta thấy có nhiều điều nghịch lý và mâu thuẫn về sự hiện diện của tên Bà trong vụ kiện ở Brooklyn?

Để tìm giải đáp cho những điều nghịch lý trên, chúng tôi xin trích dẫn những phát biểu của Bà trong một cuộc tiếp xúc thân hữu tại Paris trung tuần tháng 5/2004. Theo lời Bà (từ miệng Bà nói, lời của một người bạn tên VNT có mặt trong buổi tiếp xúc trên) thì "người ta đã đặt tôi vào một sự đã rồi (fait accompli).

Tên tôi đã được ghi vào hồ sơ kiện không có sự đồng ý của tôi cũng như hoàn toàn không thông báo cho tôi biết. Người ta chỉ đến mời tôi hợp tác khi có một ký giả người Uùc thấy tên tôi trong vụ kiện yêu cầu được phỏng vấn tôi. Tôi chấp nhận cuộc gặp gỡ với một điều kiện duy nhất là tôi có quyền nói sự thật, nghĩa là tôi không là người khởi xướng vụ kiện cũng như không có ý muốn kiện Hoa Kỳ trong vấn đề chất độc da cam." Dĩ nhiên cuộc gặp gỡ giữa Bà Hoa và phóng viên người Uùc không bao giờ xảy ra.

Bà còn thêm rằng:" Trong thời gian mà tất cả mọi người nhất là đảng CS bị ám ảnh về việc nhiễm độc dioxin, tôi cũng đã nhờ một BS Hoa Kỳ khám nghiệm (khoảng 1971) tại Pháp và kết quả cho thấy là lượng dioxin trong máu của tôi dưới mức trung bình (2ppt)."

Đến đây, chúng ta có thể hình dung được kết quả của vụ kiện.Và ngày 10 tháng 3 năm 2005, Ông chánh án Jack Weinstein đã tuyên bố hủy bõ hoàn toàn vụ kiện tại tòa án Brooklyn, New York.

Bài học được rút ra từ cái chết của BS DQH

Từ những tin tức về đời sống qua nhiều giai đoạn của Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, hôm nay Bà đã đi trọn quảng đường của cuộc đời Bà. Những bước đầu đời của Bà bắt đầu với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh niên, lý tưởng phục vụ cho tổ quốc trong sáng. Nhưng chính vì sự trong sáng đó Bà đã không phân biệt và bị mê hoặc bởi những lý thuyết không tưởng của hệ thống cộng sản thế giới. Do đó Bà đã bị lôi cuốn vào cơn gió lốc của cuộc chiến VN. Và Bà đã đứng về phía người Cộng sản.

Khi đã nhận diện được chân tướng của họ, Bà bị vỡ mộng và có phản ứng ngược lại. Nhưng vì thế cô, Bà không thể nào đi ngược lại hay "cải sửa" chế độ. Rất may cho Bà là Bà chưa bị chế độ nghiền nát. Không phải vì họ sợ hay thương tình một người đã từng đóng góp cho chế độ (trong xã hội CS, loại tình cảm tiểu tư sản như thế không thể nào hiện hữu được), nhưng chính vì họ nghĩ còn có thể lợi dụng được Bà trong những mặc cả kinh tế – chính trị giữa các đối cực như Pháp và Hoa Kỳ, trong đó họ chiếm vị thế ngư ông đắc lợi. Vì vậy, họ không triệt tiêu Bà.

Hôm nay, chúng ta có thể tiếc cho Bà, một người Việt Nam có tấm lòng yêu nước nhưng không đặt đúng chỗ và đúng thời điểm; do đó, khi đã phản tỉnh lại bị chế độ đối xử tệ bạc. Tuy nhiên, với một cái chết trong im lặng, không kèn không trống, không một thông tin trên truyền thông về một người đã từng có công đóng góp một phần cho sự thành tựu của chế độ như Bà đã khiến cho chúng ta phải suy nghĩ, suy nghĩ về tính vô cảm của người cộng sản, cũng như suy nghĩ về tính chuyên chính vô sản của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đối với chế độ hiện hành, sẽ không bao giờ có được sự đối thoại bình đẳng, trong đó tinh thần tôn trọng dân chủ dứt khoát không hề hiện hữu như các sinh hoạt chính trị của những quốc gia tôn trọng nhân quyền trên thế giới. Vì vậy, với cơ chế trên, hệ thống XHCN sẽ không bao giờ biết lắng nghe những tiếng nói "đóng góp" đích thực cho công cuộc xây dựng Đất và Nước cả.

Bài học DQH là một bài học lớn cho những ai còn hy vọng rằng cơ hội ngày hôm nay đã đến cho những người còn tâm huyết ở hải ngoại ngõ hầu mang hết khả năng và kỹ năng về xây dựng quê hương. Hãy hình dung một đóng góp nhỏ nhặt như việc cung cấp những thông tin về nguồn nước ở các sông ngòi ở Việt Nam đã bị kết án là vi phạm "bí mật quốc gia" theo Quyết định của Thủ tướng Việt Nam số 212/203/QĐ-TTg ký ngày 21/10/2003. Như vậy, dù là "cùng là máu đỏ Việt Nam" nhưng phải là máu đã "cưu mang" một chủ thuyết ngoại lai mới có thể được xem là chính danh để xây dựng quê hương Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta, những người Việt trong và ngòai nước, còn nặng lòng với đất nước, tưởng cũng cần suy gẫm trường hợp Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa ngõ hầu phục vụ tổ quốc và d dân tộc trong sự thức tỉnh, đừng để bị mê hoặc bởi chủ thuyết cưỡng quyền.

Tổ quốc là đất nước chung - Dân tộc là tất cả thành tố cần phải được bảo vệ và thừa hưởng phúc họa bình đẳng với nhau. Rất tiếc điều này không xảy ra cho Việt Nam hiện tại

Ghi chú: Ngày 3/3/2006, trên báo SGGP, GS Trần Cửu Kiếm, nguyên ủy viên Ban Quân y miền Nam, một người bạn chiến đầu của Bà trong MTDTGPMN, có viết một bài ngắn để kỷ niệm về BS DQH. Chỉ một bài duy nhứt từ đó đến nay.

Mong tất cả trí thức Việt Nam đặc biệt là trí thức miền Nam học và thấm thía bài học nầy qua trường hợp của BS Dương Quỳnh Hoa.

Mai Thanh Truyết

 

//////////////////////////////////////////////////