Thiệp Mời Hội Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST)

Hội Khoa Học & Kỹ Thuật Việt Nam (VAST)

Trân Trọng Kính Mời

Ô/B……………………………………….................... ……………………………………................................

Tham Dự

Hội Luận Về Việc Khai Thác Bauxite Tại Việt Nam

Forum on Bauxite Exploitation in ViêtNam
Sẽ được tổ chức vào ngày


Chủ nhật 22 tháng 11 năm 2009
từ 1:00 đến 5:00PM

tại Westminster Civic Center
8200 Westminster Blvd, CA 92683


Sự hiện diện của Quý Vị thể hiện sự quan tâm đến tương lai của
Đất Nước Việt Nam
.

Thay mặt Ban Tổ chức:

Nguyễn Bá Lộc
Hội trưởng VAST

Mai Thanh Truyết
Chủ tịch HĐQT VAST

Liên lạc:
(619) 248-1534,
(714) 414- 9215,
(714) 322-8081

Email:
EnviroVN@gmail.co
m
locba9999@yahoo.com


CHƯƠNG TRÌNH

- Nghi thức khai mạc: Trần Trọng An Sơn

- Chào mừng quan khách: MC Phạm Ngọc Lân

- Diễn văn khai mạc: Nguyễn Bá Lộc

- Thuyết trình:

* Tổng quát về việc khai thác bauxite:
Mai thanh Truyết

* Khía cạnh kinh tế và đầu tư ngoại quốc:
Nguyễn bá Lộc

* Khía cạnh chính trị và an ninh quốc gia:
Lê Hồng

* Vấn đề bảo tồn văn hóa & sắc tộc:
Mai Thanh Truyết

* Phương thức đấu tranh ngắn và dài hạn:

Phạm ngọc Lân - Trần cảnh Xuân

- Thảo luận

- Đúc kết: Nguyễn Bá Lộc

Nước Đồng Bằng Sông Cửu Long


NƯỚC MƯA: CỨU TINH của Đồng Bằng Sông Cửu Long

Bài viết nầy là những ý nghĩ tản mạn sau khi tham dự Hội nghị quốc tế về Arsenic: Fifth International Conference on Arsenic: Exposure and Health Effects do Society for Environmental Geochemistry and Health tổ chức tại khách sạn Holiday Inn, San Diego năm 2002. Đây là một Hội nghị thường niên có mục đích:

• Theo dõi tình trạng nhiễm độc arsenic trên thế giới;
• Cập nhật hóa các nghiên cứu liên quan đến ảnh hưởng lên sức khỏe của con người;
• Và, nhất là truy tìm những phương cách thực dụng và ít tốn kém để ngăn ngừa và giải quyết vấn đề nhiễm độc arsenic ở các quốc gia đang phát triển.

Bài viết không giới hạn trong các đề tài cùng nhận xét của Hội nghị mà đây chỉ là một sự mượn duyên để người viết trang trải một số suy nghĩ về vấn đề nước của người dân ĐBSCL.

*
*    *
Trên quảng đường dài khoảng 90 dậm từ San Diego về lại thành phố Orange, tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi hàng chữ "World war for water" trên tấm biểu ngữ căn trước Hội nghị. Tôi tự hỏi chiến tranh thế giới trong tương lai vì nước, do nước, hay do. con người? Nỗi ám ảnh càng được tô đậm thêm mỗi khi nghĩ đến hội nghị nầy. Đâu đây vẫn còn văng vẳng những lời kêu cứu, những số liệu cho thấy tình trạng nhiễm độc arsenic ở những vùng nghèo đói trên quả địa cầu do hầu hết các khoa học gia đến từ các nước "đang mở mang" đã trình bày trước hội nghị cũng như ở các phòng trưng bày kết quả nghiên cứu. Họ đến từ Bangladesh, Ấn Độ, Hồi Quốc, Mông Cổ, Đài Loan, Đại Hàn, Trung Mỹ, Phi Châu. Họ thông báo cho thế giới biết những vấn nạn đang xảy ra trên đất nước của họ. Đặc biệt năm nay, Mông Cổ chính thức công bố tình trạng nhiễm độc trầm trọng ở xứ nầy và yêu cầu sự giúp đở của thế giới.

Trong khi đó, Việt Nam, vùng đất đang bị nguy cơ nhiễm độc arsenic ở ĐBS Hồng và ĐBSCL thì vẫn chưa có một tiếng nói chính thức nào về vấn nạn arsenic trên diễn đàn nầy ngoại trừ một dự thính viên người Mỹ gốc Việt đến tham dự hàng năm để thu thập tin tức và quan sát. Ngay cả cho đến Hội nghị năm 2009 cũng không thấy phái đoán hay các nhà khoa học gia Việt Nam hiện diện. Đó là nỗi ray rứt chính trong tôi. Không lẽ nào đây chỉ là một vấn đề thứ yếu không ảnh hưởng đến quốc phòng hay an ninh quốc gia mà lãnh đạo hiện tại không cần lưu tâm đến? Không lẽ nào đây là một vấn nạn chỉ ảnh hưởng đến 80% nông dân và những người nghèo thành phố không có điều kiện mua nước lọc? Không lẽ nào vấn nạn arsenic không ảnh hưởng đến vài triệu công dân cao cấp cho nên dễ bị lãng quên!

Không lẽ nào, không lẽ nào, ba tiếng trên cứ ám ảnh mãi trong tôi vì những phát biểu trong hội nghị còn ghi đậm trong tâm khảm: "Nước tự nó không màu và không có biên giới cho nên không thể bị ức chế được" (water has no colour of its own, it has no boundary to be restricted). Và mục tiêu tối hậu của LHQ là: "Tất cả mọi người trên thế giới đều có quyền có đủ lượng nước sạch và an toàn cần thiết cho nhu cầu hàng ngày".

Ngày nay, Homo Sapiens chiếm cứ hầu hết khắp nơi trên mặt địa cầu với 6,6 tỷ người và với khả năng gia tăng 80 triệu nhân khẩu mỗi năm. Không nơi nào không có dấu chân người. Ước tính đến năm 2050, thế giới sẽ chứa tổng cộng trên 10 tỷ, trong đó dân số trong 48 nước nghèo nhất sẽ tăng gấp ba lần trong khoảng thời gian nầy.

Vấn đề sẽ không cần được bàn cải nếu có đủ lượng nước sạch để được phân phối đồng đều và công bằng cho tất cả mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng trên thực tế, khó có thể thực hiện cùng một lúc, nhất là đối với những quốc gia cùng chia xẻ một dòng sông.

Sông Colorado không còn chảy vào vịnh Mể Tây Cơ vì các đập thủy điện đã ngăn chận nguồn nước ở thượng nguồn. Mặc dù hàng năm Hoa kỳ đền bù cho Mể hàng triệu mẫu vuông (acre) nước, nhưng việc làm đó cũng không làm cho người dân sống ở hạ lưu thoát khỏi cảnh nghèo đói mặc dù họ đã xử dụng lượng nước trên cho việc tưới tiêu trong nông nghiệp. Ngược lại, ở miền Trung Nam Mỹ, hàng năm chính phủ Mể phải đền bù lại vài triệu mẫu vuông nước cho Texas từ sông Rio Grande qua hiệp ước NAPTA làm phong phú thêm cho nền kinh tế vốn dỉ đã quá thịnh vượng của Hoa kỳ.

Ở Á Châu, sông Cửu Long là một con sông quốc tế chảy xuyên qua 7 quốc gia : Tây Tạng, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Cao Miên, và Việt Nam. Tuy nhiên chỉ có 4 quốc gia sau cùng nằm trong Ủy Hội Sông Mekong để liên đới cùng chia xẻ trách nhiệm, còn các quốc kia ở thượng nguồn, mặc dù không tuyên bố nhưng đã có những hành xử vô trách nhiệm đối với dòng sông và cư dân sống ở vùng hạ lưu. Hiện tại, Trung Quốc đã cấu kết với Miến Điện, Thái Lan, và Lào để lập phương án vét nạo lòng sông để cho tàu bè từ Vân Nam có thể thông thương qua các nước kể trên. Và vào ngày 27 tháng 12, 2008, hai chiếc tàu chở dầu thô đã ngược dòng Cửu Long vể phía Vân Nam, khiến cho các NGO Xanh trên thế giới phải báo động về hiễm họa tràn dầu trên dòng sông nầy. Việc làm trên có thể làm đảo lộn thủy cường của dòng sông và ảnh hưởng trực tiếp đến vùng hạ lưu là Cao Miên và Việt Nam trong mùa khô. Quả thật đây là một hành động bá quyền của một "nước lớn"!

Nguy cơ trước mắt

Tổng sản lượng nước trên thế giới gồm: 97,5% nước biển (mặn) và chỉ 2,5% nước ngọt. Trong 2,5% nầy chỉ có 0,4% nước mặt gồm sông ngòi, ao hồ và hơi nước trong không khí, 30,1% nước ngầm, và phần còn lại là những tảng băng trải rộng ở Bắc và Nam cực. Và sau cùng trong 0,4% nước mặt đó, có 67,4% nước ao hồ, 1,6% sông ngòi, 12,2% nước đã thấm vào đất, 9,5% hơi nước trong không khí, và phần còn lại gồm các wetlands . (dữ kiện từ National Geographic).

Sự phân bổ nước trên thế giới hoàn toàn không đồng bộ do điều kiện địa lý từng vùng, sự lạm dụng của những quốc gia kỹ nghệ, và sự "nhắm mắt làm ngơ" không giúp đở các quốc gia nghèo đói của các "nước lớn". Theo ước tính, có 70% lượng nước trên thế giới được xử dụng cho nông nghiệp, 20% cho kỹ nghệ, và 10% cho sinh hoạt gia đình.

Hàng ngày, trong nhiều vùng ở Phi Châu, phần đông cư dân không có hơn một lít nước dùng cho sinh hoạt cá nhân; trong lúc đó ở Hoa Kỳ, mức tiêu thụ nước cho mỗi người dân có thể lên đến 700 lít cho một ngày, và người dân Paris, 100 lít!

Với sự tận dụng hơn 90% nước dùng trong nông nghiệp và kỹ nghệ, mực nước ngầm có khuynh hướng thấp dần do đó có thể làm cho mặt đất lún sâu. Thành phố Mexico, thủ đô của Mể Tây Cơ trong vòng 50 năm trở lại đây đã bị lún sây hơn 60 bộ (1 bộ = 25 cm), khiến cho nhiều nơi trong thành phố bị sụp lở. Tỉnh Trà Vinh ở Viện Nam, theo thống kê năm 2000, có khoảng 41.512 giếng khoan tạo ra tình trạng suy giảm trử lượng nước ngần và ô nhiễm nguồn nước. Mặt đất nơi đây đã giảm từ 2 đến 2,5 mét so với mặt đất năm 1994. Tại Cà Mau, nhiều nơi đất lún sâu cả 10 mét.

Thêm nữa, sự gia tăng dân số kéo theo nhu cầu cần phải phát triển nông nghiệp, do đó việc tận dụng nguồn nước, nhất là nước ngầm sẽ là một nguy cơ làm cạn kiệt nguồn nước trong tương lai. Trước mắt, các quốc gia đang phát triển phải trực diện với nạn gia tăng dân số vì không có khả năng ngăn chặn mức sinh sản của người dân, các nước nầy sẽ là những nạn nhân đầu tiên của nạn khan hiếm nguồn nước trong một tương lai không xa.

Kinh nghiệm thực tế cho thấy, ở các quốc gia Á Châu, Phi Châu, hay Châu Mỹ La tinh, nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp cao gấp đôi so với các quốc gia kỹ nghệ. Lý do là vì ở các quốc gia kể trên không có hệ thống tưới tiêu hoàn chỉnh và hiệu quả cũng như nguồn vận chuyển nước còn quá thô sơ, cho nên sự thất thoát rất cao.

Theo dự đoán của các chuyên gia, mức độ chiến tranh có thể gia tăng ở nhiều vùng trên thế giới trong một tương lai gần đây vì sự phân bố không đồng đều nguồn nước của các dòng sông. Có thể có nhiều mâu thuẩn trước mắt cho các quốc gia sau đây: 1) Ấn – Bangladesh vì vấn đề tranh chấp sông Ganges (Hằng Hà); 2) Ấn – Hồi vì sông Indus; 3) Israel nằm trên thượng nguồn sông Jordan và các quốc gia Jordanie, Syria, và Libanon nằm ở hạ lưu. Nơi sau cùng nầy sẽ là điểm cực nóng vì có thêm lý do tôn giáo và chủng tộc; 4) Thổ Nhỉ Kỳ, Iraq, và Syria cùng chia xẻ dòng sông Tigris và Euphrate, trong đó Thổ nằm trên thượng nguồn và đang xây dựng một hệ thống đập thủy điện ở nhiều nơi để tăng gia năng lượng và nông nghiệp. Iraq đã nhiều lần hăm dọa dội bom vào các đập ở thượng nguồn nằm trong địa phận Thổ Nhỉ Kỳ.

Như vậy, trong tương lai, nếu không có một biện pháp can thiệp hữu hiệu để giải quyết các vấn đề trên ở tầm mức toàn cầu thì chiến tranh vì "nước" ở những vùng kể trên có thể xảy ra bất cứ lúc nào!

Nước và sự tái sử dụng

Do nhu cầu phát triển, lượng nước dùng trong nông nghiệp và kỹ nghệ ngày càng tăng nhất là đối với các quốc gia đang phát triển. Ở các nước kỹ nghệ, các nguồn nước thải sinh hoạt và kỹ nghệ được xử lý và được xử dụng lại. Do đó, họ hạn chế được mức ô nhiễm môi trường và quan trọng hơn cả là tiết kiệm nguồn nước thiên nhiên ngày càng giảm dần.

Nguồn nước sông Gironde ở vùng kỹ nghệ Bordeaux (Pháp) đã được tái xử dụng sáu lần. Tại California, thành phố Los Angeles, San Diego và quận Orange đã pha thêm vào nguồn nước sinh hoạt gia đình với một lượng nước sinh hoạt đã được "tái sinh" bằng phương pháp ngấm thấu (percolation). Tỷ lệ pha trộn trung bình hiện nay vào khoảng 15 – 20%.

Do đó, ngay từ bây giờ, cần phải xóa đi quan niệm về nguồn nước mặt, nước ngầm . . . là vô tận! Thêm nữa, trên bình diện quốc gia cần phải đầu tư nhiều vào các dịch vụ xử lý nước thải để dùng lại. Việc xử dụng bừa bãi phân bón trong nông nghiệp cũng như các loại hóa chất bảo vệ thực vật đã góp phần không nhỏ vào nguyên nhân làm ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm.


Kinh nghiệm Bangladesh

Đứng trước thảm nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước ảnh hưởng lên 50 trịêu dân do việc UNICEF khuyến khích đào hơn 4 triệu giếng đóng, Bangladesh đang trực diện trước một vấn nạn sinh tử là truy tìm nguồn nước mới cho người dân. Câu giải đáp hiện tại và cuối cùng cho quốc gia nầy là phải nhờ đến thiên nhiên: MƯA. Hầu như tất cả các chuyên gia kinh nghiệm trong vấn đề nầy đều đồng ý về những thuận lợi cho việc dùng nước mưa tại đây là:

• Lượng nước mưa sẽ đủ dùng cho mùa khô nếu có phương tiện dự trử;
• Nước mưa tương đối sạch và có thể xử lý vật lý như gạn lọc trước khi dùng (rẻ tiền);
• Mỗi đơn vị nhà cửa có thể chứa nước mưa trên nóc nhà hay các bồn chứa cá nhân để dự trử trong mùa khô;
• Có thể thiết lập các hồ chứa công cộng có đáy bằng cát nhuyển cho một khu dân cư lớn. Hồ nầy có thể dẫn đến các hệ thống tưới tiêu cho nông nghiệp.

Từ những thuận lợi kể trên, chính phủ Bangladesh cho áp dụng việc tồn trử nước mưa khắp nơi, đặc biệt là những vùng ven biển bị nhiễm mặn triền miên. Vũ lượng ở Bangladesh thay đổi từng vùng từ 200 mm/năm ở Tây Bắc đến 2000 mm ở Đông Nam. Mặc dù đứng trước những khó khăn trong việc thuyết phục người dân dùng nước mưa và phải lo tồn trử nước, chính phủ Bangladesh sau cùng cũng thành công trong việc giải quyết được nạn ô nhiễm arsenic trong nguồn nước và những hệ lụy của arsenic lên sức khỏe người dân một phần nào. (Các bịnh tật do arsenic gây ra đã từng được người dân Bangladesh thừa nhận là do Thượng đế(!) trừng phạt).

Sau cùng, kế sách xử dụng nước mưa đã được UNICEF ủng hộ và yểm trợ phương tiện cùng tài chánh cho Bangladesh. Hy vọng từ đây các bịnh trạng do arsenic gây ra sẽ giảm dần trong tương lai cho đất nước nầy.

Mưa và Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL)

Vùng ĐBSCL có vũ lượng hàng năm là khoảng 2000 mm. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Do đó chỉ cần tồn trử nước mưa từ tháng 11 cho đến tháng tư cho mùa khô. Nếu tính mỗi đầu người cần 5 lít nước mưa một ngày để dùng cho ăn uống thì nhu cầu hàng năm cho một gia đình 4 người ở vùng nầy là:

5L/ngày/người x 4 người/gia đình x 356 ngày/năm = 7.300 L/gia đình/năm

Như vậy, chỉ cần các bồn chứa có dung tích khoảng 3.700 L là đủ dùng cho mùa khô. Việt Nam có khả năng làm các bồn chứa 500 L bằng plastic nhẹ.

Đối với các dịch vụ công cộng chỉ cần các hồ chứa lớn hơn và có lớp plastic LDPE (low density poly-ethylene) bọc phần đáy và thành hồ, chúng ta sẽ có những bồn chứa có trử lượng hàng ngàn m 3 cho nhu cầu công cộng.

• Đứng trước viển ảnh bị ô nhiễm arsenic qua việc xử dụng hơn 200.000 giếng đóng ở ĐBSCL mà cả UNICEF lẫn chính phủ Phan Văn Khải cũng phải nhìn nhận vào năm 2002;
• Đứng trước thực trạng xử dụng bừa bãi thuốc trừ sâu rầy, xử dụng quá tải lượng phân bón cho nông nghiệp mà kết quả là bao nhiêu vụ ngộ độc thực phẩm đã diễn ra hàng ngày trên báo chí Việt Nam;
• Đứng trước sự thành công bước đầu trong việc giải quyết thảm nạn arsenic của chính phủ Bangladesh;
• Liên Hiệp Quốc qua UNICEF đã nhìn nhận rằng không còn có biện pháp nào tối ưu hơn để giải quyết vấn nạn ô nhiễm arsenic ở các quốc gia đang phát triển bằng cách tận dụng nước mưa do thiên nhiên "tài trợ".

Do đó, mục tiêu của bài viết nầy là gợi ý giới hữu trách Việt Nam về vấn nạn đang xảy ra cho ĐBSCL: Ô nhiễm arsenic trong nguồn nước sinh hoạt hiện tại. Nồng độ arsenic trong nước ở các giếng đóng đo được ở nhiều nơi đã đạt đến mức tiêu chuẩn chấp nhận của Liên Hiệp Quốc là 10 ug/L (10 ppb).

Đây là một biện pháp đơn giản, ít tốn kém, không đòi hỏi "khoa học kỹ thuật" cao, hoàn toàn thích hợp cho điều kiện Việt Nam hiện tại.

Kết luận

Nước là nguồn sống cho nhân loại. Nước sạch để tưới tiêu, nước sạch để tắm gội, rữa rau cá thịt, để nấu nướng, để uống. Nước cho cây cỏ, cho cá tôm, theo đó cho sự điều hòa của hệ sinh thái thiên nhiên.

Nhưng con người đôi khi chưa ý thức được sự quan trọng của nước, đã lạm dụng nguồn nước, chẳng những không bảo vệ nguồn mà làm cho nước ngày càng mất đi tính tinh khiết do thiên nhiên đãi ngộ.

Con người cũng chưa lường hết những hệ quả trong khi khai thác tài nguyên, bất chấp những hệ lụy của sự tác động môi trường, điển hình là các đập trên sông Hoàng Hà, sông Colorado, đập Yali ở Việt Nam vân vân.

Đối với Việt Nam, ảnh hưởng của các đập trên thượng nguồn sông Cửu Long, sự phá hoại các rừng tràm thiên nhiên ở Cà Mau, Bạc Liêu để nuôi tôm, sự tận dụng nguồn nước ngầm trong nông nghiệp, lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, tất cả sẽ sinh ra các hệ quả hết sức tiêu cực và khó thể ước lượng được mức tác hại trong tương lai…

Do đó, dù muốn dù không, nước mưa cũng sẽ là vị cứu tinh cuối cùng cho người dân ĐBSCL.

Lạy Trời mưa xuống lấy nước tôi uống… . . . Câu hò miền thôn dã quả đã ứng nghiệm thật đúng cho tâm cảnh hiện tại của người dân ĐBSCL mà niềm tin cuối cùng còn đọng trên môi là TRỜI.


Mai Thanh Truyết
Hiệu đính 10/2009

Thiep moi

Các Tổ Chức Bảo Trợ:

.

Đại Việt Quốc Dân Đảng

. Đại Gia Đình Nguyễn Ngọc Huy

. International Foundation for the Development of Vietnam, Hòa Lan

. V.I.E.T. Foundation - Volunteers for the Integration of Ethnic Traditions, CA

. Đài Truyền Hình VHN, CA

. Diễn Đàn Điện Tử khoahoc.net, Đức Quốc

. Nhóm Phục Việt Âu Châu, Paris, Pháp Quốc

. Tổng Hội Cựu SV Quốc Gia Hành Chánh

. Tuần Báo Tiếng Dân, Bắc California

. Bán Nguyệt San Thế Giới, và Nguyệt San Sống, Houston

. Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam California

. Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại - Trung tâm Tây Nam Hoa Kỳ

. Diễn Đàn Việt Thức - VTO Washington DC

. Hội Cựu Quân Nhân / QLVNCH / Thụy Sĩ

. Nhóm Phục Việt Âu Châu Paris, Pháp

Hội Khoa Học & Kỹ Thuật Việt Nam (VAST)

Trân Trọng Kính Mời

Ô/B……………………………………….................... ……………………………………................................

Tham Dự

Hội Luận Về Việc Khai Thác Bauxite Tại Việt Nam

Forum on Bauxite Exploitation in ViêtNam

Sẽ được tổ chức vào ngày

Chủ nhật 22 tháng 11 năm 2009

từ 1:00 đến 5:00PM

tại

Westminster Civic Center

8200 Westminster Blvd, CA 92683

Sự hiện diện của Quý Vị thể hiện sự quan tâm đến tương lai của

Đất Nước Việt Nam.

Thay mặt Ban Tổ chức:

Nguyễn Bá Lộc Mai Thanh Truyết

Hội trưởng VAST Chủ tịch HĐQT VAST

Liên lạc:

(619) 248-1534, (714) 414- 9215, (714) 322-8081

Email:

EnviroVN@gmail.com

locba9999@yahoo.com

CHƯƠNG TRÌNH

- Nghi thức khai mạc: Trần Trọng An Sơn

- Chào mừng quan khách: MC Phạm Ngọc Lân

- Diễn văn khai mạc: Nguyễn Bá Lộc

- Thuyết trình:

* Tổng quát về việc khai thác bauxite:

Mai thanh Truyết

* Khía cạnh kinh tế và đầu tư ngoại quốc:

Nguyễn bá Lộc

* Khía cạnh chính trị và an ninh quốc gia:

Lê Hồng

* Vấn đề bảo tồn văn hóa & sắc tộc:

Mai Thanh Truyết

* Phương thức đấu tranh ngắn và dài hạn:

Phạm ngọc Lân - Trần cảnh Xuân

- Thảo luận

- Đúc kết: Nguyễn Bá Lộc

Phẩm Chất Nước

 

 

Phẩm chất Nước và Sự Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam

 

 

Trên thế giới ngày nay, giống Homo Sapiens hay con người chiếm cứ hầu hết khắp nơi trên mặt địa cầu với 6,6 tỷ người và có khả năng gia tăng 80 triệu nhân khẩu mỗi năm. Không nơi nào không có dấu chân người. Ước tính đến năm 2050, thế giới sẽ chứa tổng cộng trên 10 tỷ, trong đó dân số trong 48 nước nghèo nhất sẽ tăng gấp ba lần trong khoảng thời gian nằy.

 

Để có thêm khái niệm về tình trạng nước trên thế giới, xin đan cử ra đây vài số liệu cần nên biết. Tổng sản lượng nước trên thế giới gồm: 97,5% nước biển (mặn) và chỉ 2,5% nước ngọt. Trong 2,5% nầy chỉ có 0,4% nước mặt gồm sông ngòi, ao hồ và hơi nước trong không khí, 30,1% nước ngầm, và phần còn lại là những tảng băng trải rộng ở Bắc và Nam cực. Và sau cùng trong 0,4% nước mặt đó, có 67,4% nước ao hồ, 1,6% sông ngòi, 12,2% nước đã thấm vào đất, 9,5% hơi nước trong không khí, và phần còn lại gồm các vùng đất ngập nước (wetland). (dữ kiện từ National Geographic).

 

Sự phân bổ nước trên thế giới hoàn toàn không đồng bộ do điều kiện địa lý từng vùng, sự lạm dụng của những quốc gia kỹ nghệ, và sự "nhắm mắt làm ngơ" không giúp đở các quốc gia nghèo đói của các "nước lớn". Theo ước tính, có 70% lượng nước trên thế giới được xử dụng cho nông nghiệp, 20% cho kỹ nghệ, và 10% cho sinh hoạt gia đình. Hàng ngày, trong nhiều vùng ở Phi Châu, phần đông cư dân không có hơn một lít nước dùng cho sinh hoạt cá nhân; trong lúc đó ở Hoa kỳ, mức tiêu thụ nước cho mỗi người dân có thể lên đến 700 lít cho một ngày; và người dân Paris tiêu thụ 100L/ngày.

 

Thêm nữa, sự gia tăng dân số kéo theo nhu cầu cần phải phát triển nông nghiệp, do đó việc tận dụng nguồn nước, nhất là nước ngầm sẽ là một nguy cơ làm cạn kiệt nguồn nước trong tương lai. Trước mắt, các quốc gia đang phát triển phải trực diện với nạn gia tăng dân số vì không có khả năng ngăn chặn mức sinh sản của người dân, các nước nầy sẽ là những nạn nhân đầu tiên của nạn khan hiếm nguồn nước.  Để có khái niệm rõ thêm về vấn đề nước, thiết nghĩ cũng cần nên biết về những yêu cầu đòi hỏi cho nước "sạch" và tiêu chuẩn cần có để bảo vệ sức khỏe của người tiêu dùng.

 

Định nghĩa và Tiêu chuẩn nước sạch

 

Nước là một nhu cầu không thể thiếu của con người. Trung bình nước chiếm độ 75% trọng lượng của cả cơ thể. Nói về nước "sạch", theo định nghĩa, nước sạch là nước chỉ chấp nhận sự hiện diện của các hợp chất hữu cơ, kim loại và các ions hòa tan với một vi lượng rất nhỏ tuỳ theo độc chất của các chất kễ trên. Và định mức nầy đã được Liên hiệp quốc cũng như các quốc gia trên thế giới chấp nhận tùy theo điều kiện phát triển của từng quốc gia. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn cho nước uống ở các nơi cũng gần giống nhau. Căn cứ theo Code of Federal Regulations thuộc EPA Hoa kỳ, các tiêu chuẩn cần có cho nước uống gồm:

 

  • Ions: nồng độ của Fluor trong nước không được quá 2mg/L; Chlor, 250 mg/L; Sulfate, 250 mg/L; Nitrate, 45 mg/L….. .
  • Kim loại: Aluminum, 0,2 mg/L; Antimony, 0,006 mg/L; Asenic, 0,010 mg/L; Chromium, 0,050 mg/L; Thủy ngân, 0,002 mg/L; Nickel, 0,100 mg/L; Selenium, 0,050 mg/L; Đồng, 1,0 mg/L; Sắt, 0.3 mg/L; Manganese 0,050 mg/L; Bạc, 0,100 mg/L; Kẽm, 5.0 mg/L.
  • Ngòai ra, tiêu chuẩn còn có ghi thêm trên 100 hợp chầt hữu cơ với hàm lượng cho phép hiện diện trong nước rất thấp tính từ phần tỷ đền phần ức (ppb và ppt).
  • Về các yếu tố vật lý thì độ dẫn điện (specific conductance) không được vượt quá 900 microhmos. Lượng chất rắn hòa tan (TDS) cũng không được quá 550 mg/L.
  • Cũng cần phải kể thêm tiêu chuẩn vi sinh, tức mức E-coli không quá 23 MPN/100mL (most probable number-MPN).

 

Nói chung, nước được gọi là sạch và hợp vệ sinh khi đạt được các tiêu chuẩn yêu cầu trên và có độ pH trong khoảng từ 6,5 đến 7,5 (pH trung hòa trong nước là 7,0). Các tiêu chuẩn sau đây tuy không nằm trong định mức của tiêu chuẩn quy định cho nước sạch, nhưng là những chỉ dấu đầu tiên để xét nghiệm phẩm chất của nước. Đó là Độ oxy hòa tan (DO), và Nhu cầu oxy (COD); chỉ số sau cùng nầy để ước tính mức độ hợp chất hữu cơ hòa tan trong nước.

 

Phẩm chất nước ở ĐBSCL và miền Đông Nam Việt

 

Các dữ kiện trình bày sau đây được căn cứ vào tài liệu "Số liệu chất lượng nước 1985 – 1997" do Trung tâm Chất lượng Nước và Môi trường thực hiện trong dự án Giám sát Hạ lưu Lưu vực Mekong thuộc Ủy ban Mekong Quốc gia cho ĐBSCL. Đối với miền Đông Nam Việt, các dữ kiện nêu ra được lấy từ báo chí ở Việt Nam, báo cáo của Sở Môi trường Thành phố, và của Ngân hàng thế giới (WB).

 

Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chúng tôi chỉ nêu ra hai trường hợp điển hình ở khu Tứ giác Long xuyên va vùng Cà Mau từ đó có thể suy diễn ra các vùng chung quanh cùng chịu chung ảnh hưởng của môi trường trong vùng ĐBSCL.

 

Nhìn chung, vùng ĐBSCL chưa bị ảnh hưởng nhiều của việc phát triển kỹ nghệ do đó mức ô nhiễm hữu cơ và vi sinh không đáng kễ. Tuy nhiên, do việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật và phân bón quá tải cho nông nghiệp, nứơc ở nhiều vùng đã có chỉ dấu ô nhiễm thuốc DDT và nitrate.

 

Các tiêu chuẩn nêu ra sau đây dùng để lượng định khái quát phẩm chất nước ở vùng nầy là: Độ oxy hòa tan (Dissolved oxygen – DO), Chlor, và pH. Ngoài ra các dữ kiện khác như: Tổng lượng chất rắn hòa tan (Total Dissolved Solids-TSS), Sulfate, Phosphate, Calcium, Magnesium, Natrium, Kalium, Aluminum, và COD (chemical oxygen demand) cũng đã được phân tích, nhưng kết quả vẫn còn ở mức độ chấp nhận được cho nên không cần phải thảo luận nơi đây.

 

  • Trước hết, Độ oxy hòa tan (DO) có khuynh hướng giảm dần từ mùa nước nổi so với mùa khô, giảm theo thủy triều lên và xuống, cũng như giảm theo thời gian tính từ 1985 trở đi. DO trung bình trong nước uống (sạch) là 7.8 mg/L. Trong những tháng khô, có nơi DO xuống thấp còn 0,4 (nếu DO xuống dưới 3,0 mg/L các nguồn sinh vật như tôm cá sống trong nước có nguy cơ bị chết ngộp). Điều đáng quan ngại hơn cả là DO giảm theo thời gian, và nếu hiện tượng nầy tiếp tục thì hệ luận tự nhiên là khối lượng tôm cá trong nguồn nước ở vùng nầy có thể bị "tuyệt chủng"!
  • Độ chlor trong nước: Nồng độ chlor cũng thay đổi theo mùa nước nổi (tháng 8,9,10,11), và mùa khô (tháng 2,3,4,5). Trung bình vào mùa khô nồng độ chlor thay đổi từ 20.000 đến 80.000 mg/L, so với mùa nước nổi là 5.000 – 10.000 mg/L. Trong những năm sau 1985, nồng độ Chlor có khuynh hướng tăng dần và điều nầy đã được chứng minh là hiện nay mức độ nhiễm mặn đã đi vào sâu trong đất liền, có nơi sâu hơn 100 cây số so với khoảng độ 20 cây số mười năm trước đây. Vấn đề nầy ảnh hưởng không nhỏ đến việc giảm thiểu diện tích đất dùng cho nông nghiệp.
  • Độ pH cũng giãm theo mùa nước nổi, trung bình từ 7,0 đến 7,5, so với mùa khô, từ 5,0 đến 6,0.Tuy nhiên, trong mùa nầy có nhiều nơi pH hạ xuống thấp đến dưới 3,0, và với mức độ nầy thì tôm cá khó sống sót được.

 

Ngược lại với vùng ĐBSCL, miền Đông Nam Việt chịu áp lực nặng nề của việc phát triển kỹ nghệ, do đó hầu như tòan thể sông Sài gòn, sông Đồng Nai từ hồ Trị An về hạ lưu, sông Thị Vải (DO ở vùng nầy xuống thấp từ 1 đến 0,3 mg/L theo tin tức của Sở KHCN&MT thành phố năm 2008. Sông Vàm Cỏ Đông đều đã bị ô nhiễm nhất là ô nhiễm vi sinh (gấp ngàn lần hơn tiêu chuẩn cho phép) và hữu cơ.  Đặc biệt các dòng kinh chung quanh thành phố HCM và Biên hòa hòan tòan bị ô nhiễn nặng và không còn thấy dấu vết của tôm cá trong nguồn nước. Cũng cần nên nhắc thêm là, hiện nay CS Việt Nam đang phát triển mạnh vùng Saìgòn Nam, và vì không lưu ý đến hệ thống thoát nước và xử lý nước sinh hoạt, các kinh đào vùng nầy đã bắt đầu bị ô nhiễm tương tự như kinh Nhiêu Lộc và các kinh đào nối liền . Hiện tại, chưa đẩy 10 năm phát triển, khu Phú Mỹ Hưng (Sàigòn Nam) đang bị một vấn nạn ô nhiễm nguồn nước mặt như Sài Gòn, nghĩa là ngoài những tòa nhà tráng lệ, có sân cỏ à tô điểm hoa lá, thậm chí cũng có những hồ bơi tươi mát sau nhà, nhưng hệ thống thoát nước sinh hoạt đểu không qua xử lý và thải thẳng vào các kênh chung quanh nhà…

 

Theo báo cáo của thành phố, trung bình mỗi ngày sông Đồng Nai và Sàigòn phải hứng chịu trên một triệu m3 lượng ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt với hàm lượng DO thấp và COD quá cao (tiêu chuẩn sau nầy để ước tính nồng độ hữu cơ trong nước). Ngoài ra còn có một khối lượng lớn nước thải kỹ nghệ của trên 40 ngàn cơ sở sản xuất cũng được chuyển tải thẳng vào nguồn nước không qua xử lý. Một vài con số sau đây cho thấy mức độ trầm trọng của vùng nầy. Vào mùa khô năm 1995, nồng độ DO trên sông Sàigòn đã giảm xuống dưới 3,0 mg/L. Mùa khô năm 1999, lần đầu tiên tại Bến Than, thượng nguồn sông Đồng Nai đã có chỉ dấu ô nhiễm hữu cơ và chung quanh lưu vực Biên hòa, nhiều nơi chỉ số DO xuống còn 2,3 mg/L. Và cũng tại Bến Than, độ mặn đo được vào đầu tháng 2/1999 là 400 mg/L. Cũng cần phải nói thêm là lượng nitrogen và phosphor trong nước đã làm tăng lượng rong tảo, và điều nầy đã làm tắc nghẽn hệ thống lọc trong quá trình xử lý ở nhà máy Thủ Đức nhiều lần trong năm 2007.

 

Nguồn nước ngầm của vùng Sàigòn cũng bị ảnh hưởng nặng. Nhiều giếng đóng trong vùng không còn được xử dụng được nữa vì trong nước có chứa quá nhiều chất hữu cơ và kim loại nặng như manganese, chì, thủy ngân và chrom.

 

Tóm lại, các chỉ dấu trên đây cho thấy tình trạng ô nhiễm trầm trọng ở các sông ngòi miền Nam Việt Nam. Theo dự báo của Sở Môi trường thành phố HCM thì lượng ô nhiễm phế thải sinh hoạt và kỹ nghệ đổ vào hai sông Sàigòn và Đồng nai sẽ tăng lên 400% cho năm 2005. Nếu không có biện pháp thích ứng ngay từ bây giờ, chắc chắn chỉ trong vài năm nữa thành phố Biên hòa và HCM cùng các vùng phụ cận sẽ không còn đủ lượng nước sinh hoạt cho người dân trong vùng.

 

Nguyên nhân ảnh hưởng đến phẩm chất nước

 

Có rất nhiều nguyên nhân ô nhiễm ảnh hưởng đến phẩm chất nước; tùy theo điều kiện từng vùng trong phát triển, ô nhiễm tác động lên nguồn nước khác nhau. Vùng ĐBSCL chịu áp lực của việc khai thác nông nghiệp và kỹ nghệ tôm cá cho nên đặc tính ô nhiễm có sắc thái khác hơn miền Đông Nam Việt, chịu nhiều áp lực của phát triển kỹ nghệ.

 

  • Việc phá rừng: Theo báo cáo 2002 của Chiến lược Quốc gia Bảo vệ Môi trường (National Environmental Protection Strategy) do Ngân hàng Thế giới bảo trợ thì trong 5 thập niên vừa qua lượng rừng bao phủ cả nước giảm từ 43% xuống còn 29%. Việc nầy ảnh hưởng nặng nề đến nguồn nước trong lòng đất. Một thí dụ điển hình và gần đây nhất, nước sông Hương trở nên vẫn đục nhiều ngày và có độ COD cao, TSS, TDS cao, cũng như độ pH. Chưa bao giờ nước sông Hưong bị nhiễm mặn như lúc nầy, và hầu như tòan thể dân chúng thành phố Huế được phân phối nước uống bằng xe bồn trong nhiều ngày (tháng 8/02). Tại vùng Ca øMau và Bạc Liêu, dựa theo ước tính từ không ảnh chụp được qua vệ tinh năm 1999, diện tích rừng tràm đước (mangrove forests) đã bị phá hủy độ 250.000 hecta để dùng cho việc nuôi tôm. Và không ảnh cũng cho thấy khoảng độ 50% diện tích trên đã bị bỏ hoang vì không còn khai thác được nữa. Cũng theo báo cáo trên trong vòng 5 thập niên trở lại đây ở vùng nầy Việt Nam đã khai thác hơn 80% rừng tràm đước.

 

  • Nhiễm mặn, nhiễm phèn, và sự acid hóa: Nguồn nước vùng ĐBSCL đã bị nhiễm mặn và acid hóa trầm trọng nhất là mùa khô như đã nói ở phần trên. Miền Đông Nam Việt cũng đã bị ảnh hưởng tương tự. Theo tin tức tại tỉnh Đồng tháp, độ phèn từ các tuyến bờ bao vườn quốc gia Tràm Chim ở Tam Nông tỏa ra và làm cho khỏang 100 tấn cá nuôi trong vùng bị chết.

 

  • Vấn đề đào giếng: Việc đào giếng để có nước sạch do UNICEF (LHQ) cổ vũ đã là một vấn nạn cho ĐBSCL. Việc làm nầy đã khuyến khích nông dân tăng gia phát triển và tận dụng nguồn nước trong nông nghiệp và chăn nuôi. Hệ quả trước mắt là, ngoài việc nhiễm độc arsenic trong nguồn nước cũng như mạch nước ngầm cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Tại Trà Vinh, theo báo cáo tháng 2/2000, đã có 41.512 giếng khoan, và việc tận dụng nguồn nước đã làm mực nước ngầm giảm từ 2 đến 2,5 thước. Thêm nữa, lượng sắt và ô nhiễm vi sinh tăng gấp 200 – 300%.

 

  • Vấn đề thủy lợi: đào kinh và đê điều: Từ hơn 10 năm nay, ngòai việc khuyến khích đào giếng khoan, Việt Nam còn đẩy mạnh việc dẫn thủy nhập điền để hy vọng tăng gia nông nghiệp. Việc nầy đã gây ra nhiều hậu quả là lũ lụt xảy ra thường xuyên và có chu kỳ ngắn hơn trước đây. Hần như hàng năm đều có lụt. Hệ thống "đê bao quốc gia" và "đê bao địa phương" thiết nghĩ cũng dự phần không kém quan trọng vào vấn nạn lũ lụt trên. Hàng năm vào mùa nước nổi, mực nước đo được ở Tân châu và Châu đốc tuy chưa đến mức báo động (3,0 m ở Tân châu và 2,5 m ở Châu đốc) mà cả vùng khu Tứ giác Long xuyên và Đồng tháp mười đã bị ngập rồi, vì nước trên nguồn đã chảy vào hai vùng nầy trước, thay vì chảy thẳng ra biển do các kinh đào mới thiết lập sau nầy.. Do đó, khi mực nước lên cao thêm nữa, tức nhiên tình trạng lũ lụt sẽ xảy ra mà thôi.

 

  • Phân bón và thuốc bảo vệ thực vật: Như đã nói ở phần trên, cả hai loại hóa chất nầy đã đi vào nguồn nước trầm trọng. Trong gần một năm nay, hầu như hàng ngày, trên các mặt báo trong nước mà chúng tôi thu lượm được từ internet, tin tức người dân bị trúng độc vì ăn uống các hoa màu đã được phung xịt bằng hóa chất trên.

 

  • Phế thải kỹ nghệ ở các nhà máy xản xuất: Mặc dầu kỹ nghệ sản xuất hóa chất, thực phẩm, hàng tiêu dùng của Việt Nam vẫn còn trong tình trạng thô sơ nhưng vì việc quản lý phế thải chưa được thi hành nghiêm chỉnh cho nên hầu như tất cả phế thải lỏng đều đi thẳng vào nguồn nước. Tình trạng trên là một nguy cơ rất quan trọng vì hai nguồn nước sông Sàigòn và Đồng Nai là hai nguồn nước chính cho hàng chục triệu cư dân sống chung trong vùng.

 

 

  • Phế thải gia cư và phế thải rắn kỹ nghệ: Đây là một vấn nạn lớn lao nhất hiện tại. Cho đến bây giờ Việt Nam chưa thể hiện chính sách hay biện pháp nào để giải quyết vấn đề của các phế thải trên. Hầu hết phế thải (tính luôn cả khoảng 80% phế thải y tế) đều được tập trung vào các bãi rác lớn như Đông Thạnh (đã đóng cửa), Bình Chánh cho thành phố Sài Gòn và bãi rác Biên Hòa cho thành phố Biên Hòa. Sau vụ "bễ bờ" do nước rỉ tràn ra năm 2000, nhà máy xử lý rác tại đây đã được xây dựng lại sau đó và được khánh thành ngay 7/6/2002 với chi phí tương đương với 32 triệu Mỹ kim (500 tỷ đồng VN), với công suất được ước tính là 100.000 m3 cho đến hết năm 2002. Nhưng lượng nước rỉ còn tồn đọng tại bãi rác là 200.000 m3 và hàng ngày có thêm 200 – 300 m3 nước rỉ mới. Do đó nguy cơ vỡ bờ vẫn còn bị hăm doạ thường xuyên. (Xin nhắc là nhà máy chỉ xử lý cơ học, nghĩa là không thể giải quyết được lượng chất hữu cơ và kim loại nặng hiện diện trong nước thải và ô nhiễm vi sinh) hà máy xử lý ở Đông Thạnh chỉ hoạt động chưa đầy một tháng sau khi khánh thành (xin đọcc bài Bãi rác Đông Thạnh 1 và 2).  Riêng với nhà máy xử lý rác ở Biên Hòa, nhà máy nầy đã được xây dựng từ năm 1994 và đến 2/5/1997 mới được khánh thành với chi phí 7 tỷ đồng VN. Chỉ sau 7 ngày hoạt động, máy đã tắt tị, và nơi đây biến thành một bãi rác mới cho thành phố Biên Hòa.

 

Theo ước tính của LHQ, một người dân thành thị ở Việt Nam phóng thích trung bình 0,7 Kg rác/ngày. Với 7 triệu dân, hàng năm thành phố HCM phải giải quyết 1,8 triệu tấn rác sinh hoạt, không kể đến rác từ các bịnh viện và phế thải rắn từ các kỹ nghệ.

 

Tóm lại, tất cả các nguyên nhân chính yếu kể trên đều có thể giaiu quyết được nếu VN có một tầm nhìn quyết tâm và một chính sách biết đặt trọng tâm vào việc giải quyết và làm sạch môi trường. Nếu ngược lại, chúng ta sẽ không bao giờ thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm cả!

 

Khái niệm về phát triển bền vững – Nghị trình -21

 

Mười năm sau Hội nghị Thượng đỉnh về Toàn cầu hóa tại Rio de Janeiro, Hội

nghị Thượng đỉnh về Phát triển Bền vững (World Summit on Sustainable

Development) đã diễn ra từ 30/8 đến 4/ 9/ 2002 tại Johannesburg, Nam Phi. Mục

đích chính của hội nghị là thẩm định lại các tiến bộ của những chương trình đã

được đề ra trước đây, và các vấn đề còn tồn tại do Hội nghị Toàn cầu hóa đề ra mười năm trước đây. Hội nghị kỳ nầy do Hội đồng Quốc tế các Hiệp hội Hóa chất (International Council of Chemical Associations). Đây là một tổ chức phi chính phủ (NGO), cho nên Hội đồng quốc tế có đủ tư cách khách quan trong việc thẩm định kết quả của các quyết nghị trước kia.

 

Liên Hiệp Quốc là cơ quan bảo trợ cho Hội nghị thượng đỉnh năm 1992. Ngoài những nghị quyết về môi trường, Hội nghị trên đã đề ra một phương hướng mới; đó là khái niệm về phát triển kinh tế bền vững. Từ đó, Nghị trình-21 (Agenda-21) của Liên hiệp Quốc, được xem như là kim chỉ nam của kế hoạch phát triển toàn cầu cho thế kỷ 21, có ghi nhận như sau:" Mọi thành viên trên thế giới đều có đủ tư cách pháp nhân để thụ hưởng một đời sống có ích và lành mạnh." Đây là một mục tiêu rất tích cực, theo đó LHQ đã đề ra 27 nguyên tắc chung và hy vọng đạt được mục tiêu đã ghi trong Nghị trình 21 cho toàn thế giới.

 

Theo định nghĩa của Nghị trình-21, sự bền vững là quyền phát triển của mỗi quốc gia cùng tuân thủ theo những tiêu chuẩn giống nhau đã được đồng thuận trước đây, trong đó nhu cầu của hiện tại và tương lai phải phù hợp với những yêu cầu cho phát triển và môi trường.  Do đó, dựa trên lý thuyết và từ khái niệm bền vững trên, sẽ không có quốc gia nào có thể tự cho là ngoại lệ và không bị ràng buộc vào những điều luật về bảo vệ môi trường đã được phê chuẩn trước đây. Thêm nữa, các quốc gia cần phải cộng tác khắng khích hơn để đẩy lui sự nghèo đói và phụ giúp các nước nghèo có điều kiện để hoàn tất tiến trình phát triển bền vững chung cho toàn thế giới.

 

Tuy nhiên, sau mười năm thực hiện, nhiều mặt tiêu cực vẫn còn tồn tại như:

 

·                     Các quy định ở Thượng đỉnh Kyoto (1997) về kiểm soát và giảm thiểu mức hâm nóng toàn cầu vẫn không được sự đồng thuận của các quốc gia trên thế giới.

·                     Các ký kết cũng không được các quốc gia kỹ nghệ áp dụng triệt để.

·                     Hình ảnh một thế giới phát triển "không bền vững", hoàn toàn đi ngược với tinh thần của Thượng đỉnh Rio de Janeiro năm 1992 lại được tô đậm hơn. Đó là 1) -Khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia càng lớn dần so với các nước Bắc bán cầu và Nam bán cầu; 2)- Đối với các quốc gia đang phát triển, giai cấp giàu chiếm thiểu số, giai cấp nghèo chiếm tuyệt đại đa số và giai cấp trung lưu (thể hiện cho sức mạnh của một quốc gia) chiếm tỷ lệ rất khiêm nhường; 3)- Trên thế giới vẫn còn có 3 tỷ người không có điều kiện tiếp cận và xử dụng nguồn nước sạch, hệ thống vệ sinh thường thức hàng ngày, có mức dinh dưởng tối thiểu, có nơi cư trú an toàn, và được chăm sóc sức khỏe; 4)- Tệ hại nhất, môi sinh tòan cầu đang phải gánh chịu hậu quả do sự phát triển "không bền vững" gây ra.

 

Mục tiêu cao thượng của phát triển bền vững dựa vào ba yếu tố căn bản: phát triển xã hội, phát triển môi trường, và phát triển kinh tế. Do đó muốn đạt được mục tiêu, mỗi quốc gia cần phải thỏa mản ba yêu cầu trên.

 

Trước hết về mặt phát triển xã hội, các tiêu chuẩn chung áp dụng cho các quốc gia trên thế giới quả khó thực hiện. Mỗi quốc gia có những điều kiện đặc thù về văn hóa và cấu trúc xã hội riêng. Cho nên định nghĩa chung cho phát triển xã hội vẫn còn là một khái niệm mơ hồ và thường phải đặt căn bản trên phát triển kinh tế của từng quốc gia .

 

Về mặt phát triển môi trường, mặc dù có thể có được những điểm đồng thuận trong việc thiết lập các bộ luật môi trường của cho mỗi quốc gia, tuy nhiên việc áp dụng vẫn còn tùy thuộc nhiều vào dân trí, điều kiện xã hội và kinh tế của từng quốc gia. Từ đó việc áp dụng các luật lệ càng khó có thể đi đến đồng nhất được.

 

Tóm lại, chỉ còn mặt phát triển kinh tế là có thể đo lường một cách "biểu kiến" việc phát triển bền vững. Mặt nầy còn có thể cụ thể hóa và định lượng được mức độ phát triển qua việc sản xuất, bảo vệ môi trường, và đem lại phúc lợi cho người dân. Một thí dụ đơn giản sau đây cho chúng ta hình dung được một sự phát triển bền vững ứng hợp cho mỗi quốc gia: Một nhà máy sản xuất nước uống cho thành phố, nếu bảo quản môi trường nghiêm chỉnh qua quy trình thanh lọc  sạch, và làm giảm chi phí điều hành tối đa là một hình ảnh phát triển bền vững vì đã thỏa mãn được ba mục tiêu căn bản do Hội nghị đề ra. Trước hết, nó thỏa mãn được việc bảo vệ môi trường, mang thêm phúc lợi vào việc phát triển xã hội (như tăng công ăn việc làm cho người dân, có thêm thuế để xây dựng hạ tầng cơ sở cho xã hội), và sau cùng thỏa mãn được điều kiện phát triển kinh tế.

 
Phát triển bền vững – Nghị trình –21 của Việt Nam

 

Kể từ khi Hôị nghị thượng đỉnh về Tòan cằu hóa của LHQ tại Rio de Janeiro, Việt Nam là một trong 70 quốc gia đã ký kết vào Chương trình Hành động của Nghị trình-21 về phát triển bền vững. Trong đó Việt Nam đã cam kết long trọng rằng sẽ bảo đảm môi trường và hệ sinh thái cũng như tôn trọng sự phát triển bền vững. Việt Nam cũng còn hứa thêm là sẽ phối hợp và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác. Tiếp theo sau đó, Việt Nam cũng đã ký kết quy ước về đa dạng sinh học và sự hâm nóng tòan cằu.

 

Việt Nam bắt đầu Chương trình Quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững 2001 – 2010 (National Plan on Environment and Sustainable Development 2001-2010).

 

Tóm lại, trong một chừng mực nào đó, Việt Nam đã có cố gắng hấp thụ tinh thần Nghị trình-21 cho việc phát triển quốc gia. Tuy nhiên điều kiện tài chính, kỹ thuật và trình độ nhân sự không cho phép Việt Nam đi xa hơn tình trạng hiện tại. Một yếu tố thiết nghĩ rất quan trọng, là dường như nhân sinh quan của lãnh đạo Việt Nam về vấn đề phát triển bền vững cũng như những vấn nạn môi trường khôngđược đặt ưu tiên trong việc quản lý quốc gia, nếu không nói là lơ là.

 

Trong dự thảo phát triển bền vững Việt Nam nêu ra trong kỳ thượng đỉnh ở Johannesburg mới vừa xảy ra vào tháng 9/2002 đã chứng minh nhận xét vừa kễ trên. Quan điểm "không nên để thúc ép về môi trường mà đánh mất lợi thế phát triển trong định hướng chiến lược để tiến tới phát triển bền vững" của TS Trần du Lịch đã thể hiện tinh thần không coi trọng các hệ lụy của phát triển như vấn nạn môi trường trong khi phát triển. Thêm nữa, trong số 8 nguyên tắc chính của phát triển bền vững của Việt Nam mà dự thảo nêu ra, dĩ nhiên vai trò khoa học và kỹ thuật đóng vai trò đầu tàu kéo tòan bộ sự phát triển mà không hề nhắc đến yếu tố căn bản là nguồn nhân lực để bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Từ đó, đáng lý vai trò giáo dục phải đứng hàng đầu mà cũng không được dự thảo nhắc đến.

 

Các mục tiêu kết hợp cho phát triển bền vững trong Nghị trình-21 của Việt Nam cũng không nêu ra các liên hệ căn bản giữa kinh tế, xã hội, và môi trường, ba mối liên hệ tương tác do LHQ đề xướng.

 

Trong xã hội Việt Nam hiện tại, những "tinh hoa" hay "chuyên viên" cần phải có thêm tiêu chuẩn "hồng" mới được đón nhận vào ngạch hành chính để điều hành các nghiệp vụ chuyên môn dành cho phát triển. Do đó, lượng nhân sự kỹ thuật tham gia vào công cuộc phát triển vốn đã ít ỏi lại càng vơi dần thêm trước nhu cầu gia tăng nhân sự.

 

Có lẽ vì mang nặng nhiều mặc cảm có khả năng làm trì trệ việc phát triển đất nước, cho nên Việt Nam đã để lỡ nhiều cơ hội tiếp nhận đầu tư ngoại quốc, thay vì có khuynh hướng tăng dần kể từ khi áp dụng chính sách "đổi mới" từ năm 1986; trái lại, mức đầu tư đã bị khựng lại từ năm 1993 trở đi cho đến năm 2002 và bắt đầu được đầy mạng ngay sau khi gia nhập vào WTO năm 2007. 

 

Để kết luận, chúng ta có thể nói mà không sợ nhầm lẫn rằng, Việt Nam chưa sẳn sàng cũng như chưa chuẩn bị đúng mức để hội nhập vào công cuộc phát triển bền vững tòan cầu theo tinh thần của Nghị trình-21 do Liên hiệp đề ra từ năm 1992. Ngày nào lãnh đạo Việt Nam chưa chịu thay đổi não trạng hiện tại thì Việt Nam sẽ khó có thể trở thành con rồng vùng Đông Nam Á trong vài thập niên sắp tới đây chứ đừng nói là sẽ trở thành một cường quốc so với thế giới.

 

Mai Thanh Truyết

Hiệu đính 10/2009

 

 

 

 

Phẩm Chất Nước Ngầm

 

 

Phẩm chất nguồn nước ngầm ở Việt Nam

 

 

Trong vài năm trở lại đây, mỗi khi đi vào không phận Sài Gòn, chúng ta sẽ thấy trên nhiều nóc nhà trong thành phố rãi rác những thùng bằng inox hình trụ. Đó là những bồn chứa nước sinh hoạt cho gia đình từng nhà được bơm lên từ các nguồn nước ngầm qua các giếng. Lý do là nguồn nước do công ty cấp nước không cung cấp đầy đủ cũng như phẩm chất không được bảo đảm và áp xuất nước từ vòi nước không đủ mạnh để bơm lên những tầng nhà cao. Do đó, người dân tự động đào giếng, khoan giếng để có thêm nguồn nước sinh hoạt hàng ngày.

 

Nguồn nước ngầm vì vậy dự phần không nhỏ trong quá trình cung cấp nước sinh hoạt ở Việt Nam ngoài nước mưa, hoặc nước sông rạch. Trên bình diện thế giới, 96% nước không bị đóng băng (unfrozen water) đều nằm dưới mặt đầt cho nên được gọi là nước ngầm (groundwater). Và chính nước ngầm nầy cung cấp từ 25 đến 40% nguồn nước ngọt cho thế giới tùy theo điềi kiện thời tiết hàng năm.

 

Theo ước tính của Viện Nghiên cứu và Kế hoạch nguồn nước (Institute for Water Resource Research and Planning) của các cơ quan quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Chương trình Phát triển LHQ năm 1996 thì khả năng hiện có của nguồn nước ngầm ở Việt Nam là 48 tỷ m3/năm (hay 131,5 triệu m3/ngày). Tuy nhiên, trong hiện tại mức xử dụng trung bình hàng năm là 1 tỷ m3 cho toàn cõi Việt Nam.

 

Ở miền Bắc Phi Châu, Vùng bán đão Arab, Úc Châu, Siberia, vùng Trung Hoa Kỳ, tuy hiện tại là những vùng sa mạc khô cằn; nhưng thực tế có những túi nước ngầm rộn lớn làm sâu dưới lòng đất nhưng chưa được khai thác. Tùy theo điều kiện địa chất của từng vùng, nước ngầm có thể được khai thác và xử dụng khác nhau vì phẩm chất nước ngầm cũng không giống nhau. Cho nên, không phải nguồn nước ngầm nào cũng được dung cả. Những vùng nước ngầm đã được tạo dựng từ thời cổ nguyên đại, thời khí hậu trên mặt đất còn ẩm ướt hay gần những túi nguyên liệu năng lượng hóa thạch (dầu hỏa) có trử lượng rất cao, nhưng không thể dùng được.

 

Giếng ở Việt Nam

 

Ở Việt Nam, việc lấy nước ngầm thông thường dung phương pháp đào giếng chứ không có những hệ thống dẫn nước từ nước ngầm như ở các quốc gia Tây phương. Do đ1o kỹ nghệ đào giếng là một kỹ nghệ rất thịnh hành ở Việt Nam, nhứt là từ khii Việt Nam qua chương trình UNICEF, khuyến khích việc xử dụng nước "sạch" từ thập niên 80 ở thế kỷ trước.

 

Có 3 loại giếng nước hiện đang có ở Việt Nam. Đó là giếng đào, giếng đóng, và giếng khoan.

 

1-    Giếng đào: Loại giếng nầy thường thấy ở Việt Nam nhất ở miền Nam, nơi mặt đất không cao nhiều so với mặt biển

2-    Giếng đóng: Đây là một loại giếng thông dụng trong khoảng hơn 20 năm nay. Loại giếng nầy có được qua việc đóng một ống nước có đường kính tương đối nhỏ xuống vùng đất mềm như cát và sạn nhỏ. Nhiều nơi không cần đóng sâu và có thể chạm được mạch nước ở tầng dưới của giếng đào.

3-    Giếng khoan: Đây là một loại giếng cần phải có máy khoan và khoan xuyên qua một lớp đá sâu. Thông thường phải khoan trên dưới 200m như vùng Chợ Lớn, Khu Lê Minh Xuân, và cần phải đặt một bơm ở dưới đáy để bơm nước lên. Giếng khoan rất ít thông dụng cho trường hợp cá nhân vì rất tốn kém mặc dù đây là một nguồn nước có phẩm chất tốt nhất. Còn hai nguồn nước do giếng đóng và giếng đào, do mạch nước gần mặt đất, do đó nguy cơ bị ô nhiễm do nông nghiệp, công nghiệp và chăn nuôi rất cao.

 

Phẩm chất nước ngầm

 

Tại Việt Nam, nguồn nước mặt vẫn là nguồn nước chính cho hầu hết sinh hoạt gia cư và kỹ nghệ. Nước ngầm chỉ chiếm độ 30% mức tiêu thụ mà thôi. Tuy nhiên ở nhiều nơi mức tiêu thụ nước ngầm lên đến 100% như ở thủ đô Hà Nội.

Việt Nam có trên 630 thành phố, trong đó trung bình tỷ lệ người dân được cung cấp nước khoảng 60% vẫn còn tương đối thấp. Khả năng cung cấp nước của hơn 200 nhà máy nước trên toàn quốc là 2,6 triệu m3/ngày trong năm 1998, trong lúc đó nhu cầu dự trù cho năm 2010 được ước tính là 8,8 triệu m3/ngày cho nước sinh hoạt và kỹ nghệ.

 

Đối với nông thôn và miền núi, từ năm 1982, LHQ qua Quỹ Nhi đồng thế giới (UNICEF) đã tài trợ cho việc đào giếng ở Việt Nam lấy lý do là để tránh bịnh dịch tả trong nguồn nước khi dùng nưo17c mưa hoặc nguồn nước mặt.  Và tính đến hôm nay đã thực hiện trên 500.000 giếng cho toàn quốc, không kể một số lượng không nhỏ do tư nhân tự làm lấy đặc biệt ở vùng ĐBSCL.

 

Nói chung, vũ lượng trung bình ở Việt Nam từ 1.800 đếm 2.000 mm nước mưa hàng năm, tuy nhiên cũng có những vùng vũ lượng thấp hơn 200 mm.. Do đó, nước giếng (từ nước ngầm) sẽ dễ dàng bị ô nhiễm do nước mưa chuyển tải những hóa chất độc hại vào nguồn nước sâu trong lòng đất. Ở Việt Nam, còn có thêm ảnh hưởng của gió mùa, như mùa khô kéo dài khoảng 6 tháng, do đó mực nước ngầm trong giai đoạn nầy giảm xuống rất nhiều.

 

Phẩm chất của nước ngầm gồm các đặc tình vật lý (độ trong-đục, độ dẫn điện, vị, pH, nhiệt độ, màu  v.v…), hóa học, và sinh học. Thông thường, nước ngầm không màu, không vị. Tuy nhiêm nó chứa nhiều ion kim loại vì các ion nầy được hấp thụ vào nước ngầm qua các lớp đất, đá bao bọc. Thêm nữa còn rất nhiều hóa chất hữu cơ, vô cơ thấm vào nước ngầm qua hiện tượng ngấm thấu (percolation) từ nước mưa hay nước sinh hoạt của con người. 

 

Thông thường các ion sau đây được tìm thấy trong nước ngầm tự nhiên:

 

  • Sodium, Calcium,  Magnesium, Potassium, Iron, Strontium,
  • Bicarbonate, Sulfate, Chloride, Silica, Nitrate, Carbonate, Fluoride, Boron,
  • Ngoài ra còn có dấu vết của các kim loại sau: Antimony, Nhôm  (Aluminum), Arsenic, Barium, Chì (Lead), Manganese, Selenium, Uranium, Kẽm (Zinc), v.v…

 

Riệng tại thành phố Sài Gòn do cấu tạo trầm tích Pleistocen hiện diện ở phía Bắc, Tây Bắc, và Đông Bắc thành phố cho nên có lượng nước ngầm phong phú và sạch. Còn về phía Nam nằm trên trầm tích Holocen, do đó nước ngầm thường hay bị nhiễn phèn và mặn. Trong khu vực nội thành có 3 tầng nước ngầm được khai thác, đó là tầng 0 – 20 m, 60 – 90 m, và 170 – 200 m. Nơi Quận 12, Hốc Môn và Củ Chi nước ngầm được khai thác ở tầng 60 – 90 m.

 

Nguyên nhâm ô nhiễm nước ngầm ở Việt Nam

 

Tại Việt Nam, ô nhiễm nguồn nước ngầm có nguyên nhân hầu hết là do con người. Có 4 nguyên nhân chính yếu là nhiễm mặn, nhiễm arsenic, ô nhiễm hữu cơ, nhiễm hóa chất bảo vệ thực vật.

 

Trước hết, do khai thác nông nghiệp và chăn nuôi thủy sản quá tải và không đúng cách là nguyên nhân chính cho việc ô nhiễm nguồn nước ngầm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhiễm mặn ở nhiều nơi. Rừng ngập mặn dọc theo mũi Cà Mau đã bị đốn bỏ để biến thành hồ nuôi tôm cũng là một trong nguyên nhân chính của việc nhiễm mặn và nưo17c mặn tiến sâu vào vùng Tứ Giác Long Xuyên và U minh vào mùa khô.

 

Mạch nước ngầm một khi bị nhiễm mặn khó có thể được xử dụng lại nữa. Đó là tình trạng chung của nhiều vùng duyên hải trải dài từ Bắc chí Nam, đặc biệt là các thành phố kỹ nghệ gần biển và ĐBSCL. Đối với các vùng cao, và xa bờ biển, mức độ nhiễm mặn cũng đã xảy ra do các nguồn muối nảy sinh từ phân bón đã thấm vào mạch nước ngầm như ở Long An, Hải Dương v.v...

 

Đối với việc ô nhiễm arsenic, từ năm 1999 đến 2001, chúng tôi thường xuyên khảo sát các nguồn nước mặt và nước ngầm từ Bắc chí Nam, đặc biệt ở vùng ĐBSCL và đã cảnh báo là tình trạng ô nhiễm arsenic trong nguồn nước là một nguy cơ có thật. Mãi đến năm 2001, nguy cơ trên mới được Micheal Berg, thuộc viện Liên bang Khoa học và Công nghệ Môi trường Thụy Sĩ công bố trên tạp chí của Hội Hóa học Hoa Kỳ (ACS) là tạp chí Environmental Science & Technology, số tháng 7/2001, là nguồn nước uống ở vùng phía Bắc Việt Nam đã bị nhiễm arsenic với nồng độ gấp 50 cao hơn định mức của Việt Nam (10 phần tỷ). Nguyên nhân được tác giả trên nêu ra là do nguồn nước từ các giếng đóng ở độ sâu từ 10 đến 35 m. Năm 2003, tình trạng ô nhiễm nầy đã được chứng minh qua việc khám phá một số bịnh nhân bị bịnh arsenicosis tức là lòng bàn tay và chân bị nám đen. Đây là giai đoạn đầu từ 5 đến 10 bị nhiễm độc arsenic. Chúng tôi cũng đã công bố nồng độ As có trong nguồn nước ngầm ở Biên Hòa, Mỹ Tho, Long An, Gò Công, Bến Tre từ 10 đến 30 phần tỷ (ppb). Riêng các tỉnh Cần Thơ, Trà Vinh, Long Xuyên, Châu Đốc, hàm lượng arsenic trong nước còn ở định mức chấp nhận được là khoảng 10 phần tỷ. Tuy nhiên, nguy cơ nhiễm độc ở ĐBSCL ngày càng cao hơn vì đã có trên 300.000 giếng đang được tận dụng ở vùng nầy.

 

 

Đối với ô nhiễm hữu cơ, hiện tượng nầy được xét nghiệm khái quát qua việc khảo sát nhu cầu oxy hóa học (COD) và nhu cầu oxy sinh học (BOD5 ). Nhu cầu oxy hóa học là một chỉ dấu cho thấy sự hiện diện của các hợp chất hữu cơ nhẹ trong nước. Còn nhu cầu oxy sinh học dùng để thẩm định lượng oxy hòa tan trong nước. Ở những vùng phát triển nông nghiệp và công nghiệp, lượng COD và BOD5 thường tăng cao và đây là báo hiệu cho thấy sự có mặt của hữu cơ và việc thiếu oxy trong nước làm tăng nguy cơ hủy diệt nguồn tôm cá trong đó.

 

Ngoài ra, cũng cần kể đến ô nhiễm phosphat, nitrat, và ammoniac mà nguyên do chính là do dư lượng của phân bón và cây trồng không hấp thụ hết được cũng như nước rỉ từ các bãi rác không được xử lý.

 

Nhu cầu phát triển nông nghiệp ở Việt Nam để giải quyết việc gia tăng dân số cũng như việc xuất cảng là nguyên nhân chính của nguy cơ ô nhiễm các hóa chất diệt cỏ dại và trừ sâu rầy trong nguồn nước ngầm. Các hóa chất trên là những hợp chất hữu cơ chứa clor, có độc tính tương đương như dioxin do đó còn có tên chung là dioxin-tương đương. Thời gian bán hủy của chúng rất lâu có thể lâu hơn hàng trăm năm, nghĩa là chúng có thể tồn tại trong đất lâu dài và sau cùng theo nước mưa thẩm thấu vào nguồn nước ngầm. DDT đã được tìm thấy trong nguồn nước ở ĐBSCL vào năm 2001 dù với hàm lượng rất nhỏ là 0,11 ug/L (phần tỷ). Tuy nhiên, đây cũng là một chỉ dấu cho thấy nguồn nước ngầm không còn là nơi an toàn cho các loại hóa chất độc hại nầy, nhất là đối với các giếng đào và giếng đóng. Đây cũng là một cảnh báo rất quan trọng vì những hóa chất nầy sẽ tích tụ dần trong gan và các mô mở của con người, và chỉ phát hiện sau một thời gian dài vài chục năm bị nhiễm độc thầm lặng. Sau cùng, một khi đã phát hiện được, nguy cơ tử vong rất cao.

 

Một số đề nghị

 

Như đã phân tích ở phần trên, tình trạng xử dụng nước ngầm ở Việt Nam có thể trở thành một nguy cơ cho đời sống người dân trong tương lai, nhất là tại đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long. Hai nơi nầy là vùng có mật độ rất cao của Việt Nam. Riêng ở những vùng có mùa khô kéo dài như ở miền Trung Việt Nam và vùng bờ biển, nước ngầm có thể chỉ được xử dụng trong sinh hoạt, thiết nghĩ con người không thể dùng nguồn nước nầy để sản xuất nông nghiệp hay chăn nuôi thủy sản được. Nếu tận dụng nước ngầm ở những vùng nầy, nguy cơ nhiễm mặn và đất lún sẽ có thể xảy ra nhanh hơn.

 

Riêng tại đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long, nếu biết quản lý nguồn nước ngầm, người dân trong vùng có thể có dư thừa nước dùng cho suốt cả năm. Việc vận dụng nước ngầm để đẩy mạnh nông nghiệp và nuôi tôm cá sẽ làm cho nguồn nước sẽ mau cạn kiệt, đất lún sâu, và sự nhiễm mặn thường xuyên hàng năm sẽ trầm trọng hơn nữa. Nên nhớ, hàng năm, tại ĐBSCL vào mùa khô, nước nhiễm mặn ngày càng đi sâu vào vùng đất sâu và năm 2004, nước mặn đã vào sâu trên 100 km. Vào năm 2005 (tháng 3), nước mặn đã xâm nhập vào sông Sàigòn và Đồng Nai, chỉ cách nhà máy nước Thủ Đức 10 Km. Nhà máy nầy là trung tâm cung cấp nước cho Sài Gòn và vùng phụ cận. Độ mặn đo được ở sông Đồng Nai là 10% và sông Sàigòn là 7,7% so với cùng kỳ năm 2003 là từ 4,6 dến 6,1%0. Như trường hợp tại Trà Vinh, theo thống kê năm 2001 đất ở nơi nầy bị lún sâu từ 2 đến 2,5 mét; nguyên do là sự hiện diện của trên 42 ngàn giếng đào để lấy nước cho nông nghiệp và nuôi tôm. Tại Cà Mau, theo sự thăm dò của UNDP, mặt nước ngầm đã giảm xuống sâu từ 3 m năm 1995, và đến năm 2003 độ sâu đã xuống thấp đến 11 m. Vào tháng 4 năm2008, mùa khôgầm chấm dứt, nhưng nước mặn đã xâm nhập vào Cần Thơ, Mỹ Tho, Bến Tre…Nước sinh hoạt cho người dân vùnh Bình Điền, Bình Chánh dù đã được xử lý (!) nhưng vẫn luôn bị nhiễm manganese và  sắt rất cao cũng như có mùi khó ngữi và độ đục quá tiêu chuẩn cho phép gấp nhiều lần.

 

Từ các dữ kiện trên đây, kết luận đã được rút ra là việc xử dụng nguồn nước ngầm ở Việt Nam cần phải hạn chế nhất là ở những vùng ở độ cao của đất so với mặt biển còn thấp như vùng ĐBSCL. Nơi đây, nước ngầm không có lớp đá che phủ ở phần trên, cho nên nguồn nước dễ bị ô nhiễm vì phân bón, hóa chất bảo vệ thực vật, thậm chí ô nhiễm vi sinh cũng đã có chỉ dấu xuất hiện nơi đây. Do đó, việc dùng nước ngầm để nâng cao sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi thủy sản để phát triển xã hội là không hợp lý và không ứng hợp với chiều hướng phát triển bền vững toàn cầu qua Nghị trình 21 của LHQ là: phát triển kinh tế, đẩy mạnh việc bảo vệ môi trường, và tăng cường phúc lợi cho người dân.

 

Mai Thanh Truyết

 

West Covina 3/10/2009

//////////////////////////////////////////////////