_____Trường Đại Học Sư Phạm Sài Gòn

 

Về lại Việt Nam năm 1973, việc làm đầu tiên của tôi khi đặt chân đến Sài Gòn là chỉ vài ngày sau, tôi đi mua chiếc xe đạp với giá 25.000 Đồng. Sau khi đi "chu du" gần hai tháng trường để nhìn lại những hình ảnh cũ trên đường phố cùng viếng thăm bè bạn sau bao năm xa cách. Trong suốt giai đoạn nầy, tôi vẫn còn mãi mê với quá khứ, vẫn còn mộng du (ban ngày) với nhiều cảnh cũ người xưa, những hình ảnh đã mang tôi về một quá khứ của tuổi thanh niên trong suốt thời gian tôi vắng mặt nơi quê nhà.

Trong tôi, vẫn còn rất nhiều hình ảnh thân thương tôi đã đánh mất gần mưới năm qua, và lần lượt đượt thấy lại qua những so sánh trong ký ức xa xưa và các hình ảnh hiện tại trước mắt. Tôi đã sống lại kỷ niệm nơi trường tiểu học Trương Minh Ký, góc đường Nguyễn Thái Học và Trần Hưng Đạo (đường Kitchener và Galliéni), nơi trường Petrus Trương Vĩnh Ký, Đại học Khoa học, đường Cộng Hòa (đường Nancy), nơi Đại học Y Khoa, đường Trần Quý Cáp (đường Richard) và Cơ thể Học Viện đường Minh Mạng v.v…

Cũng xin nhắc lại vào thời điểm nầy, bộ mặt Sài Gòn hầu như đổi khác, không còn nét thơ mộng như xưa, và người thành phố dường như đang mang nặng nỗi ưu tư nào đó trên nét mặt mỗi khi xuôi ngược trên đường phố. Có lẽ người dân Sài Gòn lo sợ cho một sự việc không lành cho miền Nam thân yêu trong những ngày sắp tới!

Vì sao?

Vì Hoa Kỳ mới vừa ký kết Hiệp định Paris với Cộng sản Bắc Việt ngày 27 tháng Giêng năm 1973…và hình ảnh một nửa quê hương của Đất Nước sắp sửa lọt vào tay họ. Họ đây chính là Cộng sản Bắc Viết. Đây đó, văng vẳng những dư âm của các dự mưu chạy ra khỏi nước của nhiều người quen mà tôi nghe được mỗi lần ghé thăm. Những lời trách nhẹ của gia đình, tại sao tôi lại trở về giữa lúc dầu sôi lữa bỏng nầy, càng làm cho tôi mang them một tâm trạng bất an! Và còn nhiều nhiều nữa!

Đó là tâm trạng của đứa con Việt ở những ngày tháng đầu tiên trở về quê Mẹ!

Trường Đại học Sư Phạm Sài Gòn: Duyên hay Nghiệp?

Trước nỗi hoang mang của người Sài Gòn, bầu không khí nơi đây dường như ngừng động lại qua những tin đồn tiêu cực cho tương lai miền Nam, tuy có hơi dao động, nhưng cuối cùng rồi tôi cũng phải đi tìm một chỗ để làm việc, mặc dù nhiều bè bạn và người quen đã giới thiệu tôi vào những nơi "công quyền", nhưng đều bị tôi từ chối.

Một hôm, khi đạp xe trên đường Duy Tân và khi quẹo qua công trường Dân Chủ (Con Rùa) tôi thấy một bảng ghi "Viện Đại Học Sài Gòn". Ghé mắt nhìn vào, tôi quyết định vào thăm Viện. Bước lên lầu một, tôi gặp Cô thơ ký nhìn tôi và hỏi:

-       Ông muốn gặp ai?

-       Tôi ở ngoại quốc về, muốn viếng thăm Viện và xin gặp Ông Viện Trưởng.

Sau đó, Cô bảo tôi phải ghi tên và ghi mục đích viếng thăm để Cô vào trình GS Viện Trưởng. Ngồi chờ chưa đầy 5 phút sau, tôi thấy đích thân GS Trần Văn Tấn, người tôi chỉ nghe tên chứ chưa hề gặp mặt, đứng trước mặt tôi và mời tôi vào văn phòng. Sau vài câu chuyện mào đầu, ông hỏi tôi đã có ý định làm việc ở đâu chưa?

Tôi trả lời rằng:" Vì tình hình và không khí chộn rộn lúc nầy cho nên tôi muốn tìm một nơi tương đối yên ổn để "ẩn thân". Và tôi tiếp: "Tôi muốn vào dạy học ở một trường nào đó trong giai đoạn nầy…"

Ông nói ngay không do dự là nơi đây có hai trường thích hợp với khả năng của anh mà tôi có thể sắp xếp cho anh được Đó là, Đaị học Khoa Học và Sư Phạm. Nhưng ở Đại học Khoa Học có nhiều phức tạp, không khí nhiều khi "căng thẳng" vì một số ít nhân sự còn bon chen và ở nơi đây có quá nhiều "cây cổ thụ"; còn nơi Sư Phạm thì có anh em. Sau nầy tôi mới hiểu chữ "anh em" của Ông VIện Trưởng là vì nơi trường Sư phạm có nhiều giáo sư tốt nghiệp từ Pháp.

Khi nghe được chữ "anh em", tôi lấy quyết định ngay tức khắc và xin Ông Viện Trưởng (Quyền Viện Trưởng thì đúng hơn, vì sau đó, tôi được biết, GS Tấn không bao giờ làm Viện Trưởng vì có "quan hệ" thân mật với "một" người yêu của Hoàng Thượng thời bấy giờ).

Làm thủ tục và chỉ vừa hơn một tuần lễ là tôi nhận được giấy tờ chính thức của Tổng Ủy Công Vụ gửi giấy trình diện trường Đại học Sư Phạm. Ai dám nói con rùa Hành chánh của VNCH chậm lục đâu?

Âu cũng là Duyên?

Trường ĐAI HỌC SƯ PHẠM SÀI GÒN

Trường ĐHSP Sàigòn tọa lạc tại số 280, đường Cộng Hòa, quận 5, Sàigòn, giáp với phía sau trường Đại học Khoa học (ngày nay là đường An Dương Vương, Tp Hồ Chí Minh).

Trường được thành lập bắt đầu từ niên khóa 1958-1959, theo hệ 3 năm. Để được nhận vào học năm thứ nhất, sinh viên phải qua một kỳ thi tuyển.
Niên học đầu tiên nầy, nhà trường cũng chấp nhận cho vào học ngay năm thứ 2 những sinh viên Đại học Văn khoa, it nhất đã đỗ bằng Dự bị và những ai đang theo học trường Cao đẳng Sư phạm muốn chuyển trường.

Từ niên khóa 1962-1963 trở đi, học kỳ theo hệ 4 năm: Sinh viên phải đậu ít nhất là chứng chỉ Dự bị Văn khoa hoặc Dự bị Khoa học rồi mới được nộp đơn dự kỳ thi tuyển vào Đại học Sư phạm, Mỗi năm trường tổ chức một kỳ thi tuyển vào khoảng cuối tháng 7 (sau khi đã có kết quả kỳ thi Dự bị ở Đại học Văn khoa và Đại học Khoa học), mỗi khóa thi tuyển trường sẽ chọn lại cho mỗi ban từ 25 đến 30 sinh viên, sau khi trúng tuyển các sinh viên nầy sẽ tiếp tục học thêm 3 năm nữa và khi ra trường, tốt nghiệp với văn bằng "Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp".

Từ năm 1972, Trường ĐHSP Saigon bắt đầu tổ chức thêm kỳ thi tuyển vào các ban Toán, Lý Hóa và Anh Văn cho các ứng viên vừa đậu tú tài toàn phần. Học kỳ sau khi trúng tuyển là 2 năm cho đệ nhất cấp và 4 năm cho đệ nhị cấp. Năm đầu tiên được gọi là năm "dự bị".

Sau ngày 30/04/1975 hệ thống học Dự bị Văn khoa hay Khoa học trước rồi mới được dự kỳ thi tuyển vào ĐHSP không còn nữa mà tất cả các thí sinh đều thi tuyển thẳng vào ĐHSP sau khi đã đậu bằng tú tài toàn phần.

Sinh viên ĐHSP được cấp học bổng nhưng phải ký giấy cam kết , sau khi tốt nghiệp sẽ phục vụ cho trường Trung học nhà nước ít nhất là 10 năm. Số tiền học bổng cũng được tăng lên dần theo với đà lạm phát, lúc đầu mỗi sinh viên được lãnh mỗi tháng 700 đồng VN, từ khoảng năm 1960/1961 số tiền học bổng là 1500 đồng VN và đến năm 1970 thì mỗi sinh viên được lãnh khoảng 3000 đồng VN mỗi tháng.

(Người viết: Phạm Thị Nhung)

Từ 1958-1962 theo hệ 3 năm gọi là Cao Đẳng Sư phạm. Khóa 3 năm cuối cùng: 1962-1965. Tiếp theo là 2 khóa 4 năm: 1963-1967 và 1964-1968. Như thế năm 1966 không có sinh viên ra trường.

Từ 1966 trở đi bắt đầu khóa 3 năm + 1 năm chứng chỉ dự bị Văn khoa hoặc Khoa học. Như thế năm 1965 không có thi tuyển.(Bổ túc của Vũ Lưu Xuân)

 
Khuất sau tàn cây là dẫy lầu thuộc ban Văn chương. Dẫy lầu trắng bên phải được xây cất sau này, trên nền của Thư viện ĐHSP ngày trước.


Sân trường ĐHSP phía ban Văn chương.

 


Sân trường ĐHSP phía ban Văn chương


Dẫy lầu ban Văn chương ĐHSPSG.

 


Dẫy lầu ban Khoa học ĐHSPSG.


Dẫy lầu ở giữa (được xây cất sau này) là nơi đặt văn phòng của Ban Quản trị, chổ này, trước đây, là Thư viện của ĐHSPSG.

 


Cuối dãy lầu ban Khoa học, phía bên phải, ngày xưa là nơi giữ xe gắn máy cho SV.


Dãy lầu ban Văn chương

 


Cổng chính vào trường ĐHSP số 280-An Dương Vương-Q.5 Tp Hồ Chí Minh.


Từ cổng chính đi thẳng vào

 

Hình ảnh và Vài nét về Trường Đại học sư Phạm Sài Gòn trích từ web daihocsuphamsaigon.org của một cựu sinh viên Ban Văn chương Tràn Thị Thanh Hương, Paris.

 

Những cải tổ theo chiều hướng giáo dục mới

Từ năm 1972 trở đi, một số giáo sư tốt nghiệp hoặc tu nghiệp từ Pháp và Mỹ trở về làm cho bộ mặt trường Sư phạm có thêm sinh khí mới. Đó là:Lê Bảo Xuyến (Bà Lê văn) (Anh văn-Huntington Beach- Hoa Kỳ),  Nguyễn Thị Đủ (Giáo dục-Việt Nam), Nguyễn Thị Phương (Hóa học- Rennes-Pháp), Mai Thanh Truyết (Hóa học-Houston-HK), Lê Thanh Hoàng Dân (Giáo dục Sư phạm-Việt  Nam), Lê Quang Tiếng (Toán – Pasadena-Hoa Kỳ), Trần Kim Hạnh (Vạn vật-Giáo dục-Texas), Bùi Thị Lạng (Hải dương học-Việt Nam), Trần Kim Nở (Anh văn-Giáo dục-Dallas), Phạm Văn Quảng (Anh văn-Tâm lý giáo dục-Westminster-HK), Dương Kim Sơn (Tâm lý gia đình-Anh Văn-Toronto-Canada), Lê Thành Việt (Anh văn-Scramento-HK), Dương Thiệu Tống (Tâm lý giáo dục-Việt Nam). Nguyễn Hữu Phước (Giáo dục-Huntington Beach-HK). (Danh sách có thể còn thiếu vì tác giả viết theo ký ức).

Khởi sắc như thế nào?

Có thể nói đây là một cố gắng của Ban Giám đốc trường và các giáo sư về nước trong khoảng thời gian trên. Đứng đầu là Khoa trưởng Trần Văn Tấn (1930-2014), giáo sư Toán và có thể nói, ông là người giáo sư đã từng đi nghiên cứu, hội thảo về giáo dục trên hầu hết các quốc gia tiến bộ và đang phát triển trên thế giới. Từ đó, ông có một tầm nhìn rất thoáng cho giáo dục Việt Nam. Những buổi họp Hội đồng khoa thể hiện một tinh thần cởi mở, các thành viên phát biểu và góp ý thoải mái. Từ đó sáng kiến của luồng gió mới từ ngoại quốc về được lắng nghe.

Xin đan cử một vài cải cách sau đây:

·         Áp dụng phương pháp kiểm soát liên tục đề làm giảm bớt áp lực của sinh viên trong kỳ thi cuối học kỳ (được thử nghiệm ở Ban Khoa học).

·         Mở lớp Tiến sĩ giáo dục tại trường để các giáo sư tốt nghiệp tại các quốc gia ngoài Hoa Kỳ có điều kiện thẩm thấu một phương pháp và quan niệm giáo dục mới, nhứt là trong ngành sư phạm.

·         Lớp Tiến sĩ trên cũng là một phương tiện để các giáo sư tốt nghiệp tại Việt Nam hay chưa có bằng Tiến sĩ có điều kiện thăng tiến kiến thức và nghề nghiệp.

·         Về thực nghiệm và phương pháp giảng dạy trung học qua thí nghiệm: Trường đã thành lập các ban tu chính để cập nhật hóa những thí nghiệm mới thay thế cho chương trình thí nghiệm quá xưa. Ban Hóa học đã đi đầu trong lãnh vực nầy.

·         Thử ứng dụng một hình thái giáo dục mới như điều chỉnh khoảng cách giữa Thầy – Trò để giảm bớt những lề lối cổ điển và khắc khe trong quan niệm Quân-Sư-Phụ  khô cứng của tinh thần Nho giáo. Từ đó, tạo điều kiện cho sinh viên đối thoại với người thầy một cách thoải mái hơn, để rồi, người thầy biết thêm về tâm tư, nguyện vọng của sinh viên. Do đó, hiệu năng của việc giảng dạy sẽ tăng hơn.

Đó là một số cải cách ban đầu. Nhưng tiếc thay, cuộc can qua của đất nước xảy ra chì một thời gian ngắn sau khi trường Sư Phạm bắt đầu chuyển hướng mới trong hai niên học cuối cùng của miền Nam.

Rồi những hình thái giáo dục từ thời thực dân, từ thời đầu của thế kỷ 20, cộng thêm lề lối "giáo dục xã hội chủ nghĩa" biến trường Sư phạm đương thời (sau hơn 36 năm qua) thành một nơi đào tạo ra người thầy giáo, không phải để khai tâm, khai trí hay đào tạo sinh viên thành một giáo viên giảng dạy, mà  thực sự "chế tạo" một thế hệ thanh niên thành công cụ rao giảng cho chế độ, nói tốt cho chế độ, còn việc giảng dạy chuyên môn trở thành thứ yếu.

Trường Sư phạm cũng phải chịu cùng chung số phận trên. Chế độ thi tuyển rập khuôn theo miền Bắc thời chiến tranh, nghĩa là áp dụng chính sách "hồng hơn chuyên", chính sách duyệt xét lý lịch có công với cách mạng hay là "ngụy". Về nội dung đề thi luôn luôn đề cao xã hội chủ nghĩa, chiên tranh chống Mỹ, triết lý Mác Lenin là "vô địch", là "đỉnh cao của thời đại". Ngay cả trong các đề thi chuyên môn cũng đậm nét hận thù như những câu hỏi hoàn toàn "không giáo dục" như "một chiếc máy bay B-52 bị quân ta bắn rơi, thử xét xem có bao nhiêu đinh ốc trong máy bay đó (đề thi năm 2007…ghi lại theo trí nhớ)". Còn các câu hỏi về khoa học là nhưng câu hỏi từ chương có trong "sách giáo khoa" in sẳn, hàng năm tuy có "hiệu đính" nhưng những lỗi lầm trong sách năm trước vẫn còn nhan nhản hiện lên trên sách mới vừa "hiệu đính" mà sinh viên cũng phải học. Người thầy tuy có thấy sai nhưng vẫn phải dạy giống như trong sách, không được "góp ý". Chính vì vậy mà số người sau khi tốt nghiệp một vài năm, vì sự ray rứt của lương tâm đành bỏ dạy đi làm nghề khác.

Trường Sư phạm đã được đổi lốt vì bị thay thế mái ngói gạch nung âm dương cổ kính bằng những "viên gạch plastic màu đỏ chói" vô tri vô giác, thể hiện rõ não trạng xã hội chủ nghĩa mới.

Tôi tiếc cho ngôi trường Sư phạm của tôi cũng như tôi tiếc cho một người nằm xuống là BS Dương Quỳnh Hoa vì tin tưởng vào cách mạng xã hội chủ nghĩa mà những ngày cuối đời phải sống trong ray rứt và chết đi trong quên lãng, mặc dù, một thời, Bà đã đuợc phủ lên chiếc áo "Bộ trưởng Y tế" của "cái gọi là" "Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam".

Mai Thanh Truyết

Ghi chú: Giáo sư Lê Tấn Lộc (Montreal-Canada) đính chánh lại về tên gọi của Trường trong niên khóa 1958 – 1962.


Trường ĐHSP được chính cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm ký nghị định thành lập, năm 1958 và ghi rõ ràng danh xưng rõ ràng là TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM.

Nghị định cho phép các sinh viên xuất ngoại năm 1960 sang Pháp tiếp tục học trình cũng ghi rõ sinh viên năm thứ mấy của Trường ĐHSP (Nghị định số 988-TTP/KH ngày 8 tháng 10 năm 1960 của Phủ Tổng Thống. Tôi còn lưu giữ Nghị định nầy).

Và các sinh viên tốt nghiệp từ năm 1958 vẫn được cấp Văn Bằng Tốt Nghiệp Đại Học Sư Phạm. (nếu tốt nghiệp)

Văn bằng nầy cho phép các đương sự được tuyển dụng làm giáo sư trung học đệ nhi cấp "chuyên khoa" (tùy môn theo học) CHÍNH NGẠCH.

Thân mến,

Lê Tấn Lộc, Triết 1/1958

 

 

 ______________________________________________

Mai Thanh Truyết

http://maithanhtruyet.blogspot.com/


 "A nation that destroys its soils destroys itself.

Forests are the lungs of our land, purifying the air

and giving fresh strength to our people." Franklin D. Roosevelt

 

 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-

 


_________Bài Học Đầu Tiên

Vào thời điểm ngay sau ngày 30/4/1975, tâm trạng người dân hoang mang cực độ. Nhà nhà e dè mỗi khi tiếp xúc hay trao đổi với những người hàng xóm thân thuộc trước kia. Không khí xóm giềng thân mật không còn ứng hợp với câu "bà con xa không bằng láng giềng gần" nữa, đối lại bằng những cặp mắt nghi ngờ, e sợ, nhất là khi thấy bóng dáng một người quen thuộc nhưng trên cánh tay có mang một băng vải đỏ. Đó là hình ảnh tiêu biểu nhứt cho những ngày đầu gọi là "cách mạng".

Chúng tôi, một nhóm giáo chức của trường Đại học Sư phạm Sài Gòn gồm GS Nguyễn Văn Trường, Lý Công Cẩn, Lê Trọng Vinh, Trần Kim Nở, Khoa trưởng Trần Văn Tấn, và người viết (đã ở khu cư xá 57 Tự Đức từ mấy ngày trước 30/4), đang ngồi với nhau để bàn thảo xem phải hành động như thế nào, trình diện ra sao, vì hôm đó chỉ là ngày thứ hai của "cách mạng", tức thứ năm ngày 1/5/1975.

Tình cờ Nguyễn Hoàng Duyên, một thành viên của Ban Hóa học của trường lái Honda đến. Tôi đề nghị với các GS huynh trưởng để tôi cùng Duyên lên trường xem xét tình hình trước.

Hai anh em đèo nhau trên chiếc Honda dame, mỗi người một tâm trạng bất an, nhưng vẫn không lộ ra. Khi vào khỏi cổng trường, không khí hoàn toàn khác, không còn một không khí quen thuộc như ngày nào.  Một cảm giác nặng trĩu nơi tôi khi nhìn thấy một Giảng nghiệm viên thuộc Ban Vạn vật tên V. (hiện ở Paris) mang băng vải đỏ nơi cánh tay, chận chúng tôi lại, và hỏi với nét mặt lạnh lùng:"Hai anh vào ghi tên trình diện đi".

Bước vào một phòng thí nghiệm hóa học, tôi lại thấy anh Nguyễn Minh Hòa (hiện nay là Trưởng khoa Hóa ĐH Sư phạm "tp HCM", người đã từng tuyên bố là nhờ cách mạng mà vợ tôi mới…mang thai được và tôi có con nối dòng(!)), một giảng nghiệm viên của tôi, cũng mang băng đỏ trên cánh tay hỏi tôi bằng một giọng lạnh lùng, không còn kính trọng như những ngày trước đó. Dĩ nhiên là tôi ghi tên và bước ra ngoài.

Đi lần đến văn phòng Phó Khoa trưởng, cửa mở toang, tôi thấy Ngô Phàn, một sinh viên Ban Lý hóa của trường đã chạy vào bưng hai năm về trước. Phàn hỏi tôi, trên tay cầm khẩu súng lục nhỏ của GS LCC: "Anh có gặp Ô C. không? Tôi đáp:" GS LCC sẽ vào trình diện sáng nay".

Quan sát chung quanh sân trường, tôi chỉ thấy vài chị "nhà quê" quấn khăn rằn trên cổ, vẻ mặt thể hiện nét thỏa mãn của kẻ chiến thắng bước qua lại, chỉ chỏ các "anh" đeo băng đỏ mà trước đó chỉ vài ngày là những giáo sư của VHCH. Ngoài ra, không thấy bóng dáng của một "cán bộ" hay "bộ đội" nào của Bắc Việt cả.

Tôi và Duyên đi về báo cho các GS đang chờ đợi ở cư xá Tự Đức. Sau đó mọi người lên trường trình diện.

*           *           *

Một tháng sau, mọi sự đi dần vào ổn định, nghĩa là mọi thủ tục kiểm soát, kiểm tra đã hoàn tất, số giáo sư của trường được chia ra làm hai nhóm rõ rệt:

  • 1- Các giáo sư đeo băng đỏ trong những ngày đầu trở thành các Tổ trưởng và Tổ phó học tập trong đó Tôn Nữ Thị Ninh là một Tổ trưởng sáng giá nhứt, và
  • 2- Số giáo sư còn lại chiếm đa số là Tổ viên.

Chúng tôi bắt đầu chương trình "học tập" tại chỗ với mỗi tổ khoảng trên dưới 20 người, trong đó, ngoài Tổ trưởng, Tổ phó còn có một GS hướng dẫn học tập mới vào từ miền Bắc. Nơi trường Sư phạm, các "giáo sư" đó đến từ trường ĐHSP Vinh, trong đó, "một cháu ngoan của Bác" tên Trần Thanh Đạm làm Hiệu trưởng, "GS" Cao Minh Thì làm Hiệu phó, "GS" Nguyễn Văn Châu và một số "GS" khác như Yến, Thoa …và một số khác nữa mà tôi không còn nhớ tên. Tuy nhiên, một người Trưởng ban tổ chức mà tôi không bao giờ quên được, đó là Bảy Được, một công an chánh gốc, mà sau nầy đã hỏi cung tôi khi bị bắt cùng với một sĩ quan cấp tá công an là chồng của giáo sư Yến nói trên.

Dĩ nhiên những buổi học tập trên có tính chất giáo điều, diễn ra trong bầu không khí tẽ lạnh vì thái độ bất hợp tác của đa số giáo sư, ngoài những câu hỏi cò mồi của "đám  đeo băng đỏ". Tuy  nhiên cũng có những giây phút sôi nổi vì các câu hỏi "móc lò" của một số GS trẻ như Duyên và Tuấn làm cho "đám ba mươi" cứng họng, vì họ làm sao có khả năng giải đáp được trong khi não của họ chứa một tâm thức nô lệ!

Một kỷ niệm tôi còn nhớ đến hôm nay sau 36 năm là buổi đúc kết học tập. Tổ trưởng của tôi là một tiến sĩ cũng tốt nghiệp ở Pháp và là Phó ban Hóa học thời VNCH tên Nguyễn Thị Phương. Trong suốt thời gian "học tập", Cô Phương thường đi bên cạnh môt "nồng cốt" thực sự, tên Bùi Trân Phượng, con một giáo sư Việt Văn bên Đại học Văn khoa. Cô nầy luôn luôn mặc áo bà ba và quần lãnh đen và cũng "bắt chước" túi sách cán bộ sau lưng. Cô luôn kế cận "anh" Ba Trực của thành ủy. Trong thời gian nầy, Phượng còn là sinh viên, nhưng ở thời điểm hiện tại, Phượng là một "tiến sĩ" làm việc giữa Sài Gòn và Boston…

Tôi được xướng danh đọc bài bài đúc kết học tập đầu tiên. Vì đã chuẩn bị trước, tôi đã nhờ người học trò "ruột" hiện ở Vancouver soạn thảo, ghi lại tất cả những lời "Bác Hồ dạy" "Bác Tôn dạy" cùng các phát biểu của "Chú Duẩn", "Chú Đồng" v.v…Tất cả được học trò tôi đúc kết, ráp nối trên 30 trang giấy…

Dĩ nhiên, trong suốt buổi đúc kết, tôi là cây đinh trong đó. Tôi đã chiếm hết giờ dành cho Tổ để đúc kết. Do đó, sau khi thảo luận bài đúc kết, vì đã hết giờ cho nên các đồng nghiệp còn lại của tôi được ra về khoan khoái vì đã tránh được nói lên những điều ngược với lòng mình…

Trong suốt những ngày tháng gọi là "học tập", thỉnh thoảng cũng có những cán bộ cao cấp từ ngoài Bắc vào như Cù Huy Cân, Xuân Diệu, và nhiều người khác…giảng dạy về con đường đi đến thiên đường cộng sản.

Một hôm, tại giảng đường của Đaị học Khoa học có sức chứa gần 500 người, nhà thơ tình lãng mạn "ngày xưa" Xuân Diệu đăng đàn. Có thể nói, chưa bao giờ tôi có thể hình dung được một cán bộ cao cấp của cộng sản, từng giữ chức Thứ trưởng Văn hóa Bắc Việt có những thái độ và cung cách thiếu văn hóa như thế.

Ông Xuân Diệu, với cái áo sơ mi bỏ ngoài, mang đôi dép lẹp xẹp, vai mang cái bị da cán bộ…chễm chệ ngồi trên cao…tự do phát ngôn. Bên cạnh đó hai chai bia Con Cọp BGI 750cc và một ly lớn. Vừa uống, vừa nói, tay chân "quênh hoang" với luận điệu của kẻ chiến thắng, thỉnh thoảng lấy tay chùi bọt bia hai bên mép.

Và những câu nói ngày hôm đó là bài học …đầu tiên của tôi sau "cách mạng" như tựa đề của bài viết nầy và hình ảnh cây cổ thụ minh họa.

Ông ta nói cái gì?

Xin thưa,

Ông ta chê chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là giới trí thức miền Nam, giới giáo sư đại học…và ví tất cả như những cây cổ thụ xum xuê cành là…nhưng không có rễ. (Xin các giáo sư có mặt ngày hôm đó, hiện đang ở hải ngoại làm chứng dùm cho tôi, kẽo tôi bị nói oan là bêu xấu chế độ ưu việt bằng triệu lần tư bản).

Sau 36 năm, nghiệm lại câu nói năm xưa của một thi sĩ "thương cha thương một, thương ông thương mười" của Tố Hữu, người bạn của Xuân Diệu, lòng tôi chùng xuống và cảm thương cho một người lớn lên trong "cách mạng", được "cách mạng" nuôi dưỡng… cho nên mới có ý so sánh đầy 'biện chứng" trên. Trí thức "cách mạng" miền Bắc có khác gì những cây chùm gởi len lõi quấn chung quanh cây đại thụ Mác Lenin đã chết khô từ năm 1991!

Ba mươi sáu năm qua, bây giờ cả thế giới mới thực sự thấy rõ hình ảnh Việt Nam ngày nay, hình ảnh nầy đã chứng minh rành rành qua một đất nước tan hoang từ xã hội băng hoại cho đến đạo đức suy đồi, trong đó giáo dục thể hiện tất cả những gì tồi tệ nhứt như thầy trò, cô trò…có thể trao thân vì những đổi chác cho một kỳ thi, hay một mãnh bằng, chưa kể những tệ hại khác không cần phải nêu ra đây.

Có thể nói trong lịch sử giáo dục Việt Nam, chưa có thời đại nào đưa đến sự đão lộn luân thường đạo lý như giai đoạn hiện tại của Đất và Nước như ngày nay.

Bài học đầu tiên của Xuân Diệu 36 năm về trước về cây cổ thụ cần phải được xem xét lại.

Câu kết luận của bài tản mạn nầy cần phải nói cho rốt ráo là "Cây cổ thụ xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện tại là một cây chết khô, không hoa, không lá, không rễ, và thân cây đã mục nát, thậm chí mối và mọt cũng không còn gì có thể gậm nhấm được".

Mai Thanh Truyết

Bài đầu tiên của thời "gác kiếm"

8/2011__________________________________________

Mai Thanh Truyết

http://maithanhtruyet.blogspot.com/


 "A nation that destroys its soils destroys itself.

Forests are the lungs of our land, purifying the air

and giving fresh strength to our people." Franklin D. Roosevelt

 

 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-

 


________Từ Thảm Nạn Chernobyl, Bùn Đỏ Cao Bằng, và Thiên Tân:

Não Trạng Cộng Sản Vẫn Không Thay Đổi

 

Từ năm 1986, tại Liên Sô cũ (Ukraina bây giờ), một nhà máy điện hạch nhân nổ. Tại Việt nam, năm 2010, một trong 10 hồ chứa bùn đỏ của nhà máy khai thác sắt ở Cao Bằng vỡ. Và gần đây nhứt, tại Thiên Tân, ngày 12/8/2015, kho hóa chất "vĩ đại" bị phát nổ. Ba tai nạn về hóa chất cách nhau 30 năm tại ba quốc gia cộng sản Liên Sô, Việt Nam và Trung Cộng dường như có cùng một cung cách "xử lý" tai nạn giống nhau.

-       Trong đêm 25 rạng 26 tháng 4 năm 1986, một tai nạn bi thảm nhất thế giới đã xảy ra ở nhà máy điện dân sự hạch nhân Chernobyl ở Liên Sô cũ hay Ukraina hiện tại. Nhà máy điện hạch nhân nầy ở về phía Bắc cách thành phố Kiev 80 dậm.

 

 

-       Đúng một tháng sau tai nạn thảm khốc ở Hungary do một bức tường chắn của một trong 10 hồ chứa bùn đỏ, phế thải của việc khai thác bauxite bị bể ngày 4 tháng 10, tin tức từ Việt Nam thông báo là vào đêm mùng bốn rạng mùng năm tháng 11, 2010, cơn "lũ" bùn đỏ kéo theo hàng vạn khối bùn đỏ từ thượng nguồn đổ xuống. Bùn nầy là phế thải từ việc tuyển rửa quặng của xí nghiệp khai thác quặng sắt Nà Lũng thuộc công ty khoáng sản luyện kim Cao Bằng, tức công ty TKV, cũng là công ty đang thực hiện việc khai thác bauxite tại cao nguyên Trung phần Việt Nam.

 

 

-       Vào sáng ngày 12/8/2015 (giờ địa phương), đã xảy ra một vụ nổ cực lớn tại cảng Thiên Tân, hải cảng lớn thứ 10 thế giới ở thành phố Thiên Tân, đông nam Trung Cộng. Cảnh tượng tại Thiên Tân sáng 14/8 vẫn như một bãi chiến trường: các tòa nhà cháy sém, xe cộ trơ khung sắt nằm ngổn ngang, hàng loạt container bị hất lên trời rồi rơi xuống vung vãi như những hộp diêm, người dân vẫn hoảng loạn chạy đôn chạy đáo đi tìm người thân...

Thảm nạn Chernobyl

Nhà máy có 4 lò phản ứng. Đúng 1 giờ 23 phút sáng, các phản ứng phát nhiệt dây chuyền hoàn toàn không còn kiểm soát được và kết quả là nhiều tiếng nổ lớn cùng những cột lửa thoát ra từ cửa của lò hạch nhân số 4. 

Có 30 nạn nhân bị chết ngay tức khắc. Hàng ngàn nhân viện cấp cứu tự nguyện cũng bị chết tiếp theo sau đó. Sau nầy con số đã được chính quyền kiểm chứng lại và ước tính từ 7.000 đến 10.000 người bị chết. Chất phóng xạ tỏa ra, bao phủ một vùng trên 20 dậm đường kính và 135.000 người dân phải di chuyển ngay sau đó. Mức phóng xạ đã được ước tính tương đương với 200 quả bom nguyên tử đổ xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki vào thời đệ nhị thế chiến. Phóng xạ không những ảnh hưởng ở vùng xảy ra tai nạn mà còn lan rộng sang Belarus, Nga Sô, Ba Lan, Thụy Điển, Đức Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiếu quốc gia khác nữa.

Tổng kết dài hạn, kết quả cho thấy có khoảng 150.000 trẻ em có nguy cơ bị ung thư  tuyến giáp trạng, và 800 ngàn bị leukemia (ung thư máu). Trên 2 triệu rưởi mẫu đất hoàn toàn bị hoang hóa, chiếm 20% diện tích đất canh tác của Ukraine. Ngoài nhân mạng và đất đai bất khiển dụng, vùng đất hoang phế nầy phải cần đến khoảng 200 tỷ Mỹ kim để có thể thanh lọc và cải thiện môi trường.

1-    Nguyên nhân tạo nên tai nạn 

Theo lịch trình, lò phản ứng số 4 "phải" bị ngưng hoạt động vào ngày 25/4, nghĩa là ngày xảy ra tai nạn, để bảo trì và kiểm soát lại hệ thống an toàn. Trên nguyên tắc, khi bắt đầu thử nghiệm, thì tất cả hệ thống điện phải được đình chỉ, trừ nguồn điện dự trù cho việc vận hành hệ thống an toàn trong điều kiện khẩn cấp. Nhưng khi lò phản ứng hoạt động còn khoảng 50%, hệ thống điện vì một lý do gì đó vẫn còn trên mạng lưới của nhà máy. Từ đó nhiệt độ của lò phản ứng tăng nhanh bất thường, cũng như hệ thống làm nguội hoàn toàn ngưng hoạt động. 

Dưới áp lực đó, các "ống nguyên tử" bắt đầu bị bể ra và phóng xạ thoát ra ngoài môi trường chung quanh. 

Theo một tài liệu "bí mật" trong văn khố Nga Sô vừa được giải mã gần đây, thì tai nạn ở Chernobyl đã được những người có trách nhiệm tiên liệu trước qua những khuyết điểm trong việc xây dựng các lò phản ứng ở đây. Và nguyên nhân quan trọng nhất là "sự thiếu vắng của văn hóa an toàn"(lack of a safety culture), nghĩa là lãnh đạo đã biết rõ nguy cơ tai nạn sẽ xảy ra bất cứ lúc nào, nhưng vì dưới danh nghĩa tập thể, không ai xem đây là điểm cần phải cải đổi để làm tăng mức an toàn trong vận hành. 

Thứ đến là nguyên nhân về kỹ thuật, các lò phản ứng tại đây không có hệ thống kiểm soát hay chế ngự phản ứng phát nhiệt, cũng như hệ thống làm nguội bằng nước thay vì bằng hơi nước (Đây là loại lò phản ứng hạch nhân thuộc thế hệ I, nghĩa là theo kỹ thuật từ những năm 1950. Do đó, một sự tăng nhiệt độ bất thường sẽ làm tăng thêm lượng hơi nước đã hấp thụ sẳn trung hòa tử (neutron), do đó áp suất sẽ tăng dần cho đến mức độ làm bể nấp lò phản ứng). Chỉ trong khoảng thời gian 3- 4 giây, lò phản ứng thay vì được làm nguội lại, bị nóng hơn gấp 100 lần. Từ đó nước trong lò phản ứng bốc hơi, tạo ra ra áp suất lớn và làm nổ tung cả hệ thống bao bọc lò bằng bê tông cốt sắt nặng hàng ngàn tấn. Hơi nước đã mang theo độ 70% chất phóng xạ vào môi trường ngay sau đó.

Nguyên nhân thứ ba là sự vi phạm trầm trọng các thủ tục thử nghiệm về an toàn do nhân viện kỹ thuật phạm phải. Đó là trong quy trình an toàn vận hành, cần phải thử nghiệm các ống phản ứng trong lò. Lần sau cùng nầy, các nhân viện chỉ thử nghiệm 8 ống phản ứng thay vì 30 ống trong lò. Thêm nữa, hệ thống làm nguội khi xảy ra tai nạn không hoạt động.

Và nguyên nhân sau cùng là tại nhà máy không có hệ thống liên lạc hữu hiệu giữa các bộ phận chung quanh nhà máy, do đó nhân viên làm việc ở các lò khác không được thông báo kịp thời cho nên con số nạn nhân rất cao.

2-    Ảnh hưởng lên sức khỏe và tâm lý người dân sau tai nạn

Về sức khỏe:  Từ năm 1981 đến 1985, năm năm trước khi xảy ra tai nạn, trẻ em ở Ukraine dưới 15 tuổi trung bình bị ung thư tuyến giáp trạng là 4 – 6/1 triệu trẻ em . Từ năm 1986 đến 1997, số nạn nhân ung thư tăng lên 45/ 1 triệu, trong đó 64% bệnh nhân sống ở vùng bị nhiễm phóng xạ như Kiev, Chernigov, Zhitomir, Cherkassy, và Rovne.

Về ảnh hưởng tâm lý: Cho đến hiện nay, vẫn còn nhiều chỉ dấu ám ảnh và không thể xóa bỏ trong tâm thức của đa số người dân sống chung quanh Chernobyl. Đó là: sự lo sợ, sự trầm cảm, sự không còn tin tưởng vào tương lai trước mắt; và sau hết là hiện tượng rối loạn thần kinh.

Một trong những nguyên do làm cho các ảnh hưởng trên trở nên trầm trọng là vì chính quyền không có biện pháp giải thích, hướng dẫn, cùng trấn an dân chúng sau khi xảy ra tai nạn. Hơn nữa, sự hoảng hốt, và sự bưng bít những thông tin bất lợi của tai nạn, nghĩa là trốn tránh sự thật của lãnh đạo Liên Sô (thời còn dưới chế độ Cộng sản) làm cho dân chúng càng nghi ngờ và không còn ai tin tưởng những gì nhà cấm quyền thông báo ra. Đây cũng là một bài học lớn cho những quốc gia còn hạn chế thông tin trong dân chúng. 

3-    Ảnh hưởng lên xã hội, kinh tế, và chính trị

Ngay sau tai nạn, lãnh đạo Liên Sô đã kiểm soát mọi biện pháp giới hạn các hoạt động kỹ nghệ và nông nghiệp trong những vùng có nguy cơ bị nhiễm phóng xạ, nhất là các kỹ nghệ phục vụ cho xuất cảng. Điều nầy làm cho lợi tức của người dân bị giảm theo, kéo theo lợi tức của địa phương. Từ đó, mức đấu tư cũng giảm do tâm lý không an toàn của những nhà đầu tư nội địa cũng như ngoại quốc.

Thêm nữa, sự di dời dân chúng trong vùng đã làm xáo trộn mọi hoạt động trong vùng. Ngay khi xảy ra tai nạn có 116 ngàn người phải di dời. Trong khoảng thời gian từ 1990 đến 1995 chính quyền lại phải dời cư thêm 210 ngàn người nữa. Điều nầy đưa đến việc xây dựng thêm một thành phố mới là Slavitich cho cư dânvà nhân viên nhà máy Chernobyl. Chi phí cho việc di dời lên đến 26 tỷ Mỹ kim. Vì nhà máy đã bị đóng cửa vỉnh viễn cho nên nhu cầu điện năng để sản xuất và sinh hoạt trong dân chúng bị hạn chế trầm trọng.

Về xã hội, vì mức sinh sản giảm, cũng như nhân lực lao động và chuyên môn đã di chuyển về những vùng không bị ô nhiễm phóng xạ, do đó tình trạng thiếu lao động trong vùng càng làm cho mức phát triển bị sút giảm nặng nề.

Về kinh tế, nông nghiệp và kỹ nghệ hầu như bị tê liệt hoàn toàn, và chính phủ Ukraina ước tính mức thiệt hại hàng năm lên đến 13 tỷ Mỹ kim.

4-    Giải pháp đề nghị trong sự vận hành lò phản ứng hạch nhân

Từ thảm nạn kinh hoàng trên và những hậu quả tiếp theo, kéo dài hàng chục năm sau đó, Cơ quan Mội trường Hoa Kỳ và các quốc gia khác trên thế giới qua nhiều phiên họp đã đề ra các khuyến cáo sau đây hầu có thể tránh những tai nạn tương tự xảy ra trong tương lai:

·         Trước hết, cần phải chuẩn bị tư tưởng và tâm lý cho tất cả nhân viện trực tiếp hay gián tiếp tham dự vào việc điều hành một lò phản ứng hạch nhân về vấn đề an toàn trong vận hành. Mọi bất thường dù nhỏ đến đâu cũng cần phải được báo cáo lên cấp trên ngay tức khắc, và phải được ban điều hành giải quyết ngay sau đó;

·         Ủy ban Luật định Hạch nhân (Nuclear Regulatory Commission) cần phải luôn luôn giữ vai trò tích cực và cương quyết trong việc áp dụng luật lệ ở các nhà máy hạch nhân, để đề phòng tai nạn có thể xảy ra trước việc các nhà máy không tuân thủ đúng theo quy định an toàn của ủy ban;

·         Thường xuyên huấn luyện và tái huấn luyện nhân sự cũng như thực tập một số  tai nạn giã tạo để khảo sát khả năng ứng đối của nhân viên trong trường hợp xảy ra tai nạn thật sự;

·         Yếu tố nhân sự cũng là yếu tố hàng đầu trong trường hợp có tai nạn, do đó vấn đề an toàn vận hành cho một lò phản ứng hạch nhân lý tưởng cần phải được Ban điều hành phát thảo và trao đổi với nhân viên nhà máy thường xuyên;

·         Và sau cùng, làm thế nào để có một sự cảm thông và đối thoại trong tinh thần bình đẳng về bảo hành an toàn chung giữa ban điều hành và nhân viên nhà máy.

 

Thảm nạn Bùn đỏ Cao Bằng

Đây là một sự kiện đã được tiên liệu trong hầu hết các công cuộc phát triển của Việt Nam qua việc khai thác khoáng sản cũng như xây dựng các đập thủy điện và các công trình phát triển khác. Tiên liệu vấn nạn môi trường sẽ xảy ra là một "logic tất yếu" vì một nguyên nhân căn bản chính là hầu hết dự án khai triển ở Việt Nam đều không có nghiên cứu tác động môi trường (Environmental Assessment Impacts-EAI), điều đã được ghi rõ ràng trong Luật Môi Trường Việt Nam (1993) và Luật Đầu Tư trước khi cung cấp giấy phép xây dựng dự án…

Chúng ta đã từng nghe và thấy thảm nạn đã xảy ra cho các đập thủy điện trên các sông ngòi ở miền Trung bị bể hay xả nước vô tội vạ làm ngập nhiều làng xóm, thị xã từ nhiều năm qua, mỗi lần mùa mưa đến…

Chúng ta đã từng nghe và thấy dòng sông Thị Vải hầu như hoàn toàn bị ô nhiễm từ năm 1997 do công ty Vedan, ngay sau khi bắt đầu khai thác bột ngọt từ năm 1994. Qua mốc ngoặt, qua bao che v.v…tất cả đều êm xuôi mặc dù nước thải độc hại đã được thải hồi thẳng ra sông ngay sau khi sản xuất những mẽ đầu tiên. Năm 2007, chúng tôi đã nêu lên vấn nạn nầy, và đã được "phản hồi" bằng những lời lẽ cho là bôi bác chế độ! Mãi đến năm 2008, Công ty Vedan "mới" bị khám phá là có một đường ống "bí mật" xả nước thải thắng vào sông vào ban đêm từ hàng chục năm qua…Và sau cùng vào năm 2014, Cty Vedan vẫn được ban khen của UBND Biên Hòa trong việc bảo vệ môi trường dù trước đó vài tháng, thanh tra đã khám phá những đường ống ngầm dẫn nước thải từ hồ chứa ra sông!

Và sự kiện tương tự đã diễn ra tại một công ty khai thác quặng sắt ở Cao Bằng ngày hôm nay…

1-    Vài thông tin về quặng sắt

Sắt có công thức hóa học là Fe, là một thành phần kim loại chiếm 5% của vỏ trái đất. Khi nguyên chất, sắt có màu xẩm đen goi là màu xám bạc kim loại (silvery-gray metal). Đây là một kim loại rất dễ bị oxid hóa còn gọi là rỉ sét và biến thành màu đỏ giống như bùn đỏ trong công nghệ khái thác quặng sắt hay bauxite. Các màu đỏ, cam, hay vàng thường thấy trong đất và đá thông thường là các loại oxid sắt dưới nhiều kết nối giữa sắt và oxy với tỷ lệ khác nhau..

Phần dưới của vỏ trái đất được dự đoán là do hợp kim sắt và nickel vì hợp kim nầy là các "thiên thạch" (meteorites) thỉnh thoảng rơi vào mặt đất, và hợp kim nầy cũng được dự đoán là kim loại đầu tiên cấu tạo ra vũ trụ! Sao Hỏa (Mars) được gọi tên như thế là vì lớp vỏ ngoài được bao bọc bằng oxid sắt có màu đỏ.

Tên Sắt (Iron) có được từ danh từ Old English tên là Isaern, nguyên ủy từ tiếng Celtic là Isarnon.

Trên thế giới, ước tính có khoảng 800 tỷ tấn quặng mỏ sắt dung chứa độ 230 tỷ tấn sắt ròng (nguyên chất). Hàm lượng sắt ở Hoa Kỳ chiếm độ 27 tỷ tấn. Hầu hết (gần 100%) sắt nguyên chất khai thác từ các quặng mỏ được chế biến thành các loại thép khác nhau tùy theo nhu cầu, như hỗn hợp sắt và tungsten, manganese, nickel, vanadium, hay chromium v.v…dùng cho kỹ nghệ xây cất, xe hơi v.v…

Các quặng sắt thường xuất hiện dưới dạng Hematite tức oxid sắt III (Fe2O3) chứa 70% sắt, dạng Magnetite tức oxid sắt sesqui (Fe3O4) chứa 72%, và dạng Taconite chứa độ 30% hỗn hợp hai dạng trên và nhiều kim loại khác.

Sắt còn là một nguyên tố tối cần thiết cho cơ thể con người. Cơ thể con người chứa 0.006% sắt, phần lớn tồn chứa trong máu. Tế bào máu chứa sắt mang oxy từ buồng phổi đi khắp châu thân. Nếu cơ thể thiếu chất sắt, sức miễm nhiễm của cơ thể sẽ bị giảm đi.

2-    Câu chuyện bùn đỏ Cao Bằng

Ngay sau khi tai nạn xảy ra, những nạn nhân ở xã Duyệt Chung đã điện thoại lên UBND Xã để báo tình hình. Và cũng ngay sau đó (?) (theo lời báo chí!), nhân viên xí nghiệp khai thác Nà Lũng đã tìm cách bít lỗ hổng của đập bị vỡ. Dòng chảy của bùn cao từ 2 đến 3 thước chảy như con rắn tràn vào nhà, tràn xuống giếng, vào các cánh đồng. Nhiều nhà tầng thứ nhứt, tức tầng trệt bị ngập hoàn toàn… 

Mãi đến 4 ngày sau, bùn mới rút dần vào con suối cuối làng và chảy vào sông Bằng.

Chính Ông phó Chủ tịch UBND thị xã đã cho biết trước đây từ năm 2005, đã nhiều lần xí nghiệp xả bùn làm ngập đồng ruộng gây thiệt hại cho dân mà không đền bù thiệt hại gì cả.

Mỏ quặng Nà Lũng đã được khai thác từ năm 1990. Quặng sắt sau khi được đào sới lên (giống như quặng bauxite, chỉ che phủ bới lớp đất thịt khoảng 1 m) sẽ được phun nước đểu tầy rửa chất bẩn như đất cát, và các hợp kim khác lẫn trong quặng như các oxid Manganese, Selemium, Arsenic v.v… Sau đó phế thải lỏng nầy chảy vào 4 đập lớn thông nhau và các bờ đập đều được đấp "sơ sài" bằng đất.

Chính đập số 4 là đập bị vỡ và nước thải bùn đỏ ở các đập 1,2,3 vẫn tiếp tục chảy vào đập số 4 cho đến khi công ty ngăn chặn dòng chảy lại. Do đó, ước tính lượng bùn đỏ tràn vào xã Duyệt Chung không chính xác. Nhiều cơ quan ước tính hàng ngàn m3, nhiều báo ước tính hàng chục ngàn…có lẽ những con số trên thay đổi tùy theo mức thay đổi của "thủ tục đầu tiên".

3-    Giải quyết vần đề của những người có trách nhiệm  

Như đã nói ở phần trên, ngay từ đầu, Ông Lê Ngọc Quang, Phó CT UBND thị xã Cao Bằng cho biết không phải là lần đầu tiên người dân Nà Lũng bị ngập bùn, chính quyền đã yêu cầu nhiều lần, lên đến công ty, đến cơ quan bảo vệ môi trường và tài nguyên tỉnh…nhưng tất cả là "vũ như cẩn" cho đến khi có "sự cố" vừa qua.

Hiện nay (9/11), người dân phải đích thân dọn nhà cửa của chính mình, công ty chỉ cho máy hút bùn trên những đoạn đường đi vào cổng xí nghiệp. Con suối từ cuối xã Duyệt Chung, một nguồn nước sinh hoạt cho dân chúng của xã, hoàn toàn đặc quánh màu đỏ và vẫn từ từ chảy vào sông Bằng. Dấu hiệu cá chết nổi trên mặt nước cũng đã xảy ra.

Ông Đinh Ngọc Hải, Chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Cao Bằng cho biết công tác khắc phục bùn đỏ như sau: "Đang khắc phục, mọi hoạt động trở lại chỉ có học sinh đi lại còn vất vả. Đang chuẩn bị gia cố lại hồ chứa. Bùn đỏ tràn ra thì hốt đi khỏi khu vực ấy. Chúng tôi cùng các cơ quan chức năng, kể cả người dân sử dụng máy gạt, máy ủi, đưa xuống nơi bùn tràn qua và đưa đi nơi khác".

Quả thật người viết hoàn toàn mù tịt về phương pháp giải quyết của một Ông CT Hội BVMT của tỉnh…là làm sao hốt bùn tràn vào suối, tràn vào sông, hay bùn đã thấm vào lòng đất, vào mạch nước ngầm??? (Nếu Ông Chủ tịch nhận được thông tin nầy xin giải thích cho người dân khắp nơi được rõ để viết bài về phương pháp xử lý bùn đỏ sau khi có "sự cố" bể bờ chắn hồ chứa, hay "xả "lậu" phế thải bùn đỏ".

Tiếp theo, vào ngày 9/11, một nhà lãnh đạo chuyên môn của Tập đoàn Than-Khóang sản Việt Nam tức TKV, Ông Phó Tổng Giám đốc tuyên bố sẽ dùng máy hút bùn từ dòng suối trở lại đập chứa chất thải của công ty.

Giời ạ! Người viết chỉ còn biết đấm ngực ba lần xưng tội với Chúa, lạy 4 lạy sám hối với Trời Phật, xin tội với Alla…cầu mong có được một trí thông minh tối thiểu để có thể hiểu được và cảm nhận được một phương cách giải quyết vấn đề thần sầu của một nhà chuyện môn, đại diện cho đỉnh cao của trí tuệ nhân loại!

 

 

Thảm nạn Thiên Tân

Cảnh tượng tại Thiên Tân - cảng lớn thứ 10 thế giới - sáng 14.8 vẫn còn như một bãi chiến trường: các tòa nhà cháy sém, xe cộ trơ khung sắt nằm ngổn ngang, hàng loạt container vung vãi như những hộp diêm, người dân vẫn hoảng loạn chạy đôn chạy đáo đi tìm người thân...

Tân Hoa xã dẫn lời Phó Thị trưởng thành phố Thiên Tân, Trung Cộng hôm 19/8 cho biết, các nhà chức trách đã xác định được 40 loại hóa chất lưu giữ trong các nhà kho thuộc khu vực xảy ra hai vụ ở Thiên Tân vào ngày 12/8.

Theo đó, 40 loại hóa chất này thuộc 7 loại, gồm khoảng 1.300 tấn hợp chất kalium nitrate (potassium), calcium carbide, và ammonium nitrate. 500 tấn vật liệu dễ cháy, gồm natrium (sodium) và magnesium kim loại, cùng 700 tấn chất độc nồng độ cao, mà phần lớn là natrium cyanide.

Báo Australian.com.au đưa tin, nhiều người giận dữ đổ ra đường sau khi tìm khắp nơi mà không thấy người thân. Cho tới nay, con số người thiệt mạng được đưa ra theo thống kê chính thức vẫn là 50, khoảng 700 người bị thương, trong đó trên 70 người bị thương rất nặng. Số người thiệt mạng dự kiến sẽ còn tăng cao. Hiện tại, 20/8, con số thương vong đã lên cao hơn 1.000 người. Đối với vụ nổ ở Thiên Tân, thời báo Times của Mỹ cho biết, theo báo cáo của chuyên gia về sức khỏe và môi trường của Úc, Ravi Naidu, cho rằng: Không chỉ các loài động vật, mà cả các vi sinh vật cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi độc tố hóa chất sau vụ nổ; Naidu cũng chỉ ra rằng một vụ nổ như vậy sẽ không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn tác động đến tâm thần, tâm lý của nhiều người dân, đây là một vấn đề cần được quan tâm.

Danh sách nạn nhân tại các bệnh viện không rõ ràng khiến cho mọi người gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm thân nhân. Việc chính quyền không công bố thông tin đầy đủ khiến mọi người thêm phần giận dữ. Ban đầu, nguyên nhân vụ nổ chưa được công bố khiến cho người dân lo lắng trong bối cảnh họ không biết những cột khói bốc lên sau vụ nổ hóa chất sẽ gây hại thế nào cho sức khỏe của họ.

 

Từ ngày 15/8, chính quyền thành phố Thiên Tân đã sơ tán dân trong khu vực bán kính 3 km từ nơi xảy ra vụ việc do lo ngại nhiễm chất độc. Quan chức Trung Quốc cũng thừa nhận việc hóa chất độc hại rò rỉ sau vụ nổ này song cho rằng hiện không có nguy cơ nào đối với người dân ở ngoài vùng sơ tán.

Chuyên gia Trần Phá Không nói rằng vụ nổ lớn ở Thiên Tân này là thảm họa toàn diện, gây ra thương vong nặng nề, và làm ô nhiễm không khí nghiêm trọng; và đàng sau thảm họa là những bí mật trùng trùng. Bất cứ khi nào có thảm họa xảy ra ở Trung Cộng, nhà chức trách đều ra sức bưng bít để che giấu sự thật, và cố gắng báo cáo giảm thiểu thương vong để lừa dối dư luận, nhờ vậy mà thiên tai nhân họa đều tan biến, cứ như chúng chưa từng xảy ra.

Cho đến ngày 21/08/2015, tại thành phố cảng Thiên Tân, Trung Cộng, lại xảy ra thêm bốn vụ hỏa hoạn mới. Thông tin trên đây do Tân Hoa Xã loan báo. Ba vụ cháy mới xảy ra tại đúng nơi vụ nổ chính ngày 12/08,

Tham mưu trưởng Quân khu Bắc Kinh của Quân giải phóng nhân dân Trung Cộng Sử Lỗ Trạch khẳng định: "Hiện nay, trong vòng vài trăm mét, ngoài ammonia vượt mức 1 milligram thì tất cả các chỉ số khác vẫn ở trong tiêu chuẩn cho phép. (Trong lúc đó, kết quả phân tích nước mưa bị ô nhiễm sau ngày 17/8, cho thấy nồng độ sodium cyanide cao gấp 365 lần tiêu chuẩn cho phép có trong nguồn nước sinh hoạt). Nếu ai ở ngoài bán kính 2km quanh trung tâm vụ nổ thì những chỉ số này ở mức bình thường. Điều này không gây bất cứ ảnh hưởng nào đối với tính mạng người dân". (Lại thêm một tuyên bố vô ý thức và phản khoa học!)

Kỹ sư trưởng Phòng bảo vệ môi trường thành phố Thiên Tân cho biết: "Nước thải từ khu vực xảy ra tai nạn được chặn lại bởi xi măng để đảm bảo chất độc không rò rỉ ra ngoài làm ảnh hưởng đến nước ở khu vực xung quanh và ở Vịnh Bột Hải. Xung quanh khu vực này chúng tôi cũng xây những giếng kín để đảm bảo nước từ hiện trường vụ cháy không chảy ra ngoài trong trường hợp có mưa". (tương phản với hình đính kèm)

Vẫn theo thông tín viên Heike Schmidt, cách Thiên Tân khoảng 6 cây số, người ta phát hiện hàng nghìn cá chết nổi trên một đoạn sông Heihe (Hải Hà). Tổ chức môi trường Greenpeace hôm nay khẳng định cũng tìm thấy vết cyanide cũng tại con sông này, nhưng với nồng độ thấp hơn so với những ngày trước đó.

Lo ngại nguy cơ nhiễm độc hóa chất treo lư lửng, sau thông báo nồng độ cyanure trong nước sông và biển cao đến 356 lần so với mức quy định, của cơ quan chính quyền hôm qua.  Vẫn theo thông tín viên Heike Schmidt, cách Thiên Tân khoảng 6 cây số, người ta phát hiện hàng nghìn cá chết nổi trên một đoạn sông Heihe (Hải Hà). Tổ chức môi trường Greenpeace hôm nay khẳng định cũng tìm thấy vết cyanure cũng tại con sông này, nhưng với nồng độ thấp hơn.Tuy nhiên, nhiều người dân sống quanh khu vực này vẫn tỏ ra lo ngại vì hậu quả ô nhiễm môi trường không thể giải quyết trong thời gian ngắn và có thể ảnh hưởng đến thế hệ sau.

Theo quy định của Luật an toàn và Luật bảo vệ môi trường Trung Quốc, nhà kho chứa những hàng hóa nguy hiểm của Công ty vận tải quốc tế Thụy Hải phải cách khu dân cư và đường quốc lộ ít nhất 1 km thế nhưng trên thực tế nó chỉ cách khu dân cư gần nhất 600 m và cách đường cao tốc chỉ mấy chục mét.

Một người dân ở khu dân cư gần kho hàng bị cháy cho biết: "Chúng tôi sống ở khu dân cư gần đây và không ai nói với chúng tôi rằng chúng tôi sống gần kho chứa những mặt hàng nguy hiểm như vậy".

Ước tính, vụ nổ tại Thiên Tân đã ảnh hưởng đến 17.000 gia đình trong tổng số 15 triệu dân thành phố này, gây thiệt hại cho 1.700 doanh nghiệp và 675 cửa hàng.

Chính quyền thành phố đã mở cửa 21 trường học và 3 tòa nhà để làm nơi lánh nạn cho khoảng 6.300 người. Vụ nổ cũng đã gây thiệt hại về tài sản lên tới hàng chục tỷ Nhân dân tệ. Chỉ riêng số xe hơi nhập cảng khoảng trên 10.000 chiếc đang đậu trong bãi bị cháy rụi đã trị giá hơn 2 tỷ Nhân dân tệ.

1-    Các con số biết nói

Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), 68.061 người chết do tai nạn lao động tại Trung Quốc trong năm 2014, chiếm khoảng 20% tổng số các vụ tử vong cùng nguyên nhân trên toàn cầu.

Như vậy, trung bình mỗi ngày, khoảng 186 người chết do tai nạn nghề nghiệp tại đất nước 1,3 tỷ dân. Trong khi đó, tại Mỹ, với dân số khoảng 320 triệu người, 12 người mất mạng mỗi ngày vì nguyên nhân tương tự.

2-    Hai vụ nổ kinh hoàng tại Thiên Tân là do lính cứu hỏa?

Liên quan tới vụ nổ kinh hoàng ở Thiên Tân Trung Cộng, một số chuyên gia nước ngoài cho rằng việc lính cứu hỏa phun nước dập lửa là một phần nguyên nhân gây ra 2 vụ nổ kinh hoàng tại thành phố Thiên Tân.

Theo tin tức từ Reuters, TS David Leggett, một chuyên gia an toàn hóa chất tại tiểu bang California, Mỹ cho rằng việc lính cứu hỏa phun nước để dập lửa có thể đã vô tình gây ra 2 vụ nổ lớn tại Thiên Tân. Nước khi tác dụng với calcium carbide (CaC2, còn gọi là khí đá) sẽ tạo ra acetylene (C2H2) - chất khí gây nổ.

Ông Leggett kết luận: "Sự hiện diện của chất ammonium nitrate chính là nguyên nhân kích hoạt một vụ nổ với sự tàn phá đến khủng khiếp như vậy. Và một vụ nổ khí acetylene có thể dẫn đến sự kích nổ hóa chất ammonium nitrate chứa trong nhà kho, tiếp tục gây nên vụ nổ thứ 2. Thực tế hai vụ nổ ở nhà kho kể trên cách nhau khoảng 30 giây và vụ nổ sau lớn hơn nhiều vụ nổ đầu. Điều nầy đã làm cho 6 toán cứu hỏa đầu tiên, sau vụ nổ thứ nhứt bị chết cháy. Theo chiết tính của một nhân viên thành phố (dấu tên) thì mỗi đội cứu hỏa gồn khoảng từ 50 đến 60 người….

Trong lúc đó, TS Stuart Prescott, giảng viên chuyên đào tạo kỹ sư hóa chất thuộc Đại học New South Wales, Australia cho rằng khi dập lửa do calcium carbide gây ra phải dùng bột chứ không được dùng nước. "Calcium carbide phản ứng với nước và đó là phản ứng khá dữ dội trong nó và của chính nó, vì nó sinh ra khí. Bản thân chất khí cũng có thể gây cháy", ông nói.

3-    Nguyên nhân vì đâu?

CNN đặt câu hỏi, liệu vụ nổ ở Thiên Tân và hàng loạt vụ tai nạn gần đây là cái giá cho sự phát triển quá nóng của Trung Cộng.

Nhà chức trách Trung Cộng đang nỗ lực giải quyết hậu quả các vụ nổ hóa chất tại Thiên Tân gây thương vong nghiêm trọng, thiệt hại nặng về kinh tế và tác động đến cả môi trường. Theo CNN, vụ nổ xảy ra là do:

·         Quy trình giám sát thiếu chặt chẽ;

·         Và những thủ tục trong an toàn lao động ở Trung Cộng còn lỏng lẻo.

Chủ tịch CS Tập Cận Bình đã kêu gọi các cơ quan có trách nhiệm của Trung Cộng nhìn thẳng vào hậu quả của sự việc. Ông cho biết, vụ nổ Thiên Tân và các vụ tai nạn nghiêm trọng gần đây thể hiện rõ vấn đề về an toàn lao động ở quốc gia này. Ông nói đây là bài học sâu sắc mà các cơ quan cần nhìn vào để tránh những sự việc tương tự khác xảy ra.

4-    An toàn Công nghiệp, và An toàn Lao động trong vận hành

Theo Reuters, gần 70% nhà máy có sử dụng hóa chất độc hại vừa được thanh tra tại Bắc Kinh đều không đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn. Trên đây là kết quả thanh tra vừa được giới truyền thông Trung Cộng loan báo, được hãng tin Anh Reuters (21/08/2015) trích dẫn lại:"Đợt thanh tra này được tiến hành ngay sau thảm họa công nghiệp xảy ra hôm 12/08/2015, tại thành phố cảng Thiên Tân, làm 114 người thiệt mạng, hơn 700 người khác bị thương và hàng ngàn người khác buộc phải sơ tán. Theo nguồn tin từ Cục an toàn lao động, tại 124 cơ sở tại thủ đô được thanh tra, 85 cơ sở mang nhiều rủi ro. Hai trong số này đã bị yêu cầu đóng cửa vì không tuân thủ tiêu chuẩn về an toàn".

 

Theo tuyên bố của Phó chủ tịch Cục An toàn lao động, "những doanh nghiệp nào chưa đáp ứng được các yêu cầu thanh tra được đề nghị ngưng tạm hoạt động và các kho hàng được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ 24/24".

 

Đặc biệt trong số các doanh nghiệp bị điểm mặt, các thanh tra còn phát hiện nhân viên an toàn tại chi nhánh Bắc Kinh của tập đoàn hóa dầu Sinopec không nắm rõ quy trình dập tắt hỏa hoạn tại các thùng chứa dầu. Thanh tra còn nhận thấy nhân viên hút thuốc tại các khu nhà ở nằm gần kho dầu.

 

Chính thảm họa công nghiệp Thiên Tân, hải cảng lớn hàng thứ 10 trên thế giới, đã buộc chính quyền Bắc Kinh tiến hành đợt thanh tra An toàn công nghiệp trên toàn quốc. Nguyên nhân vụ nổ tai Thiên Tân đã được chính quyền khẳng quyết là do 700 tấn chất nitrate cyanide được cất trữ trong kho. Nằm cách Bắc Kinh 200 km, Thiên Tân là cửa ngỏ để vào các vùng đông-bắc Trung Cộng.

 

5-    Nguy cơ của chất độc cyanide

 

Theo luật định của USEPA, đây là dấu hiện dán lên các thùng chứa cyanide. Số 3 chỉ cho thấy mức độc hại ảnh hưởng lên sức khỏe con người (độc hại nhứt chỉ số 4). Khi phát nổ và gặp nước, cyanide phóng thích hơi hydrogen cyanide, một hóa chất rất độc vì khi xâm nhập vào cơ thể qua hít thở hay qua da sẽ tác dụng vào oxy của hồng huyết cầu và gây ra các biến chứng ở óc, tim, phổi và hệ thống tuần hoàn.

Các nguy cơ ban đầu (acute) sau khi tiếp xúc với cyanide như sau:

·         Da, mắt, mũi bị ngứa ngáy;

·         Bị ho do cổ họng và phổi bị nhiễm độc;

·         Hơi thở bị đứt quảng, không liên tục;

·         Đau đầu, tim đập mạnh;

·         Có thể đưa đến tử vong tức khắc

Nếu bị tiếp nhiễm dài hạn, sẽ làm nở lớn (enlarge) tuyến giáp trạng (thyroid), hệ thần kinh bị liệt, và làm giảm lượng hồng huyết cầu. Vì vậy, qua thảm nạn Thiên Tân, nhà chức trách cần phải đặt trọng tâm vào vấn đề kiểm soát và chăm sóc sức khỏe của dân chúng.

Thay lời kết

Qua những phát biểu và các kế hoạch ban đầu của những người có trách nhiệm trong ba thảm nạn xảy ra ở Liên Sô, việc tràn bùn đỏ của xí nghiệp Nà Lũng, Cao Bằng, và thảm nạn hóa chất ở Thiến Tân, Trung Cộng, chúng ta có thể rút tỉa một số kinh nghiệm sau đây:

·         Thái độ vô trách nhiệm của những người chiụ trách nhiệm mỗi khi có tai nạn xảy ra, vì dưới danh nghĩa tập thể, không ai xem đây là điểm cần phải cải đổi để làm tăng mức an toàn sau khi khám phá ra "sự cố" trong việc quản lý. 

  • Cung cách phát triển chỉ tập trung vào lợi nhuận, không chú ý đến việc bảo vệ môi trường;
  • Cung cách xem thường sự hiểu biết của người dân và những nhà khoa học trong nước và ngoài nước qua việc "giấu kín" chi tiết của các dự án;
  • Bưng bít, che đậy, trấn áp người người tố cáo tai nạn, bịt miệng truyền thông, thông tin sai lệch là những thủ thuật của cường quyền áp dụng cho người dân trong nước;
  • Coi thường sinh mạng, sức khỏe của người bằng cách che đậy mức nguy hại của tai nạn môi trường, nhứt là trong việc khai thác "dưới đất" (khoáng sản).

Tất cả những điều trên đây thể hiện một não trạng cứng ngắtĐó là não trạng của một chủ nghĩa Sô Viết Liên Sô còn sót lại trong suốt quá trình thành lập và xây dựng cộng sản chủ nghĩa mà chúng ta đã "chiêm ngưỡng" qua sự bể từơng chắn bùn đỏ bauxite ở Ukraina vào năm 2005 (bể tường chắn bằng bê tông cao 140m), vụ bể tường chắn tại Hungary (tường chắn cao 41m), và tại Việt Nam qua vụ vỡ bờ chắn bằng đất của xí nghiệp Nà Lũng, cũng như qua hai tai nạn ở Chernobyl và Thiên Tân.

Đối với Việt Nam, xin hỏi, kể từ đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã khai thác bauxite tại Lâm Đồng bằng phương pháp thủ công để sản xuất hàng năm độ 15.000 tấn Alumina (oxid nhôm Al2O3) dùng trong việc lọc nước sinh hoạt ở các thành phố lớn ở Việt Nam, như vậy số lượng bùn đỏ thải ra từ đó đến giờ đã được chứa ở đâu hay được thanh lọc như thế nào?

Tóm lại, thảm nạn Chernobyl, Cao Bằng hay Thiên Tân chỉ là hậu quả của một cơ chế sơ cứng "chuyên chính vô sản" mà người cộng sản Nga Sô, cộng sản Việt Nam và Trung Cộng với não trạng bệnh hoạn kết cấu thành.

Và thảm nạn Thiên Tân cũng là tiếng chuông báo tử của Đế quốc Hán tộc…

Mai Thanh Truyết

Houston 21-8-2015 (Hiệu đính)

 

 

 

 ___________________________________________

Mai Thanh Truyết

http://maithanhtruyet.blogspot.com/


 "A nation that destroys its soils destroys itself.

Forests are the lungs of our land, purifying the air

and giving fresh strength to our people." Franklin D. Roosevelt

 

 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-

 

//////////////////////////////////////////////////