VIÊT  NAM: BÀI TOÁN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHÊ &

 

 

Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

 

 

 

Nhìn lại bối cảnh Việt Nam trước thềm thiên kỷ thứ ba, chúng ta thấy rằng mặc dù có nhiều cố gắng trong việc giải quyết những vấn đề của đất nước, Việt Nam vẫn còn lúng túng trong những toan tính giải quyết cùng một lúc những nhu cầu của toàn quốc. Do đó, Việt Nam hiện đang đứng trước hai nhu cầu cấp bách của đất nước: nhu cầu phát triển công nghệ sản xuất để sinh tồn và nhu cầu giải quyết các phế phẩm để làm sạch môi trường do nhu cầu phát triển trên tạo ra. Nhu cầu giải quyết nạn nhân mãn hay hạn chế sinh sản không được đề cập đến trong bài nầy mặc dù đó là một vấn đề bức thiết cần được lưu tâm và giải quyết ưu tiên.

 

Vấn đề là làm thế nào để có một cân bằng hài hòa cho hai nhu cầu trên. Nếu đặt trọng tâm vào nhu cầu phát triển  và coi nhẹ nhu cầu giải quyết môi trường sẽ là một đại nạn cho Việt Nam trong một tương lai rất gần. Và nếu làm như thế, thế hệ con cháu chúng ta sẽ nguyền rủa chúng ta đã không những làm cạn kiệt  tài nguyên của đất nước mà còn hủy hoại môi trường sống của thế hệ tương lai.

Nếu trái lại, đặt ưu tiên hàng đầu cho việc bảo vệ môi sinh và làm chậm mức phát triển thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của người dân và đất nước sẽ khó phát triển đúng đắn.

 

Những nhà dự phóng tương lai cho Việt Nam sẽ là những người thật sáng suốt, thực tâm yêu nước và có tầm nhìn nhân bản đứng trên mọi chủ thuyết và định chế chính quyền.

 

Việt Nam là một nước đặt trọng tâm vào nông nghiệp và các công nghệ biến chế nông phẩm và lương thực. Kỹ nghệ dầu hỏa và biến chế dầu còn đang ở trong giai đoạn thô sơ ở  mức khai thác dầu thô và công cuộc tinh chế dầu và công nghệ hóa chất chuyễn hóa từ dầu vẫn còn nằm trong những dự án...

 

Các công nghệ hóa chất như acid sulfuric, chlorhydric, sút, acetylene, và một số hóa chất căn bản khác trong kỹ nghệ vẫn còn trong tình trạng sản xuất  cá thể chưa tập trung vào các quy mô lớn... Công nghệ chế biến cao su cũng còn ở mức ban đầu và chưa có những công nghệ cao cấp  để cho ra những thành phẩm sau cùng (final product) cho nhu cầu xã hội.  Công nghệ dược phẩm vẫn còn ở mức nhập cảng thành phẩm với khối lượng lớn để rồi pha trộn thành dược liệu và cung cấp cho thị trường.

 

Thêm nửa, sự phân bố các công nghệ kể trên không đồng bộ và không chia đề trên bình diện quốc gia. Nội trong bốn tỉnh thành Sàigòn, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu là vùng có nhiều công nghệ nhất nước.

Trong vùng nầy có 24.500 cơ sổ sản xuất công nghiệp cá thể và 32 khu chế xuất, chiếm phân nửa tổng sản lượng  toàn quốc. Do việc tập trung công nghệ và chưa có một chính sách rõ ràng (hay chưa được chấp hành nghiêm chỉnh!) mức độ ô nhiễm ở các vùng nầy đã vượt khỏi mức báo động từ lâu. Với trên 500 tấn rác mà dân chúng đổ thẳng xuống kinh rạch cộng với nước thải từ khu chế công nghiệp Biên Hòa đỗ ra ở phường An Bình, chỉ cách nguồn cung cấp nước của nhà máy nước chưa đầy 3 km làm cho dân chúng trong vùng luôn sống trong tình trạng ô nhiễm trầm trọng.

 

Cho đến nay, bộ phận xử lý các phế thải kỹ nghệ chỉ được các công ty ngoại quốc hay hợp doanh (joint venture) thiết kế và chấp hành nghiêm chỉnh còn tuyệt đại đa số các công ty quốc doanh và cá thể đều không trang bị hệ thống xử lý phế thải. Do đó, yêu cầu cần có một cân bằng cho hai nhu cầu phát triển công nghệ và giải quyết ô nhiễm môi trường ngày càng cấp bách hơn.

 

Trước hết, việc phân bố vùng phát triển công nghệ cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng để tránh những phân bố không đồng bộ  tạo nên sự bất cân đối trong phát triển như trong trường hợp các khu công nghiệp của các tỉnh vừa nêu trên. Việt Nam đã có những cố gắng trong vấn đề nầy như việc thiết lập hai khu chế biến công nghệ dầu hỏa ở Dung quất (Quảng Ngải) và ở Thanh Hóa. Việc nầy có thể đem lại quân bình  lao động và sản xuất nhưng về hiệu quả kinh tế thiết nghỉ cần phải xét lại vì cơ sở chế biến quá xa so với nơi sản xuất dầu khí!

 

Việc tập trung công nghệ cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cũng như đừng để cảnh trăm hoa đua nở trong việc chấp thuận giấy phép thành lập một cơ sở sản xuất: nhà máy chế biến thực phẩm nằm cạnh nhà máy hóa chất như trường hợp ở khu chế xuất Sông Bé... Việc thiết lập một nhà máy mới cần phải có nghiên cứu rành mạch về các ảnh hưởng tác hại môi trường (environmental impact assessment) trước khi được xây cất.

 

Sau hết để đáp ứng nhu cầu phát triển cần phải có thiết bị du nhập từ ngoại quốc để thực thi các công nghệ sản xuất. Đây là vấn đề cốt lõi trong giai đoạn tiền phát triển nầy. Mọi quyết định sai lầm đều có thể đưa đến hậu quả không thể lường được. Cần phải có một  tính toán trong tinh thần yêu nước tuyệt đối, không để các yếu tố khác sản sinh từ ước vọng phúc lợi riêng cho cá nhân ảnh hưởng lên những quyết định có tầm vóc quốc gia. Muốn được như thế, sự du nhập thiết bị cho công nghệ phát triển cần phải hội đủ những yếu tố sau đây:

 

Cần tránh nhập cảng:

·        Những công nghệ đã bị phế thải trên thế giới (obsolete technology);

·        Công nghệ  có chu trình xử dụng ngắn hạn (short life cycle);

·        Công nghệ bất tương xứng so với công nghệ sẳn có trong nước ( incompatible);

·        Và nhất là những công nghệ tác hại đến môi trường (environmental unfriendly). 

 

Để đạt  được  những yêu cầu trên nhà dự phóng lý tưởng tương lai của Việt Nam cần phải có:

 

·        Một sự hiểu biết kỹ thuật và tình hình công nghệ trên thế giới để khỏi bị lừa do những tài phiệt ngoại quốc thiếu lương tâm;

·        Thận trọng trong việc thu nhận các tài khoản viện trợ  của quốc tế vì phần lớn họ chỉ muốn viện trợ những thiết bị độc quyền (để gây áp lực và bắt chẹt chính quyền) hay thiết bị sắp phế thải (để tống khứ thiết bị ra khỏi nước);

·        TÂM và Ý trong sạch trong việc phục vụ đất nước để khỏi bị ảnh hưởng kim tiền  làm sai lệch quyết định;

·        Và sau hết cần phải suy nghĩ thật sâu trong việc cân bằng bài toán phát triển và môi trừơng.

 

Nếu nặng lo về phát triển để giải quyết những nhu cầu cấp bách trước mắt và nhẹ về xử lý ô nhiễm môi trường thì sẽ đưa đất nước gần đến hố diệt vong.

Nếu nặng lo về bảo vệ môi sinh  và nhẹ về phát triển là không tưởng vì không đủ nguồn vốn và không giải quyết được  vấn đề mưu sinh tối thiểu cho người dân.

 

Do đó, việc cân bằng  bài toán phát triển và môi trường phải là một tập hợp của nhiều trí tuệ sáng suốt và phải dựa trên Tâm Từ Bi mà hành xử.

Không có những điều kiện trên thì sẽ khó có thể có được một giải đáp hài hòa cho bài toán cân bằng nầy được.

 

Xin đang cử ra đây một thí dụ về một  lối giải quyết phát triển kinh tế có tính cách nhất thời và hủy diệt môi trường một cách tệ hại. Đồng bằng sông Cửu Long hiện đang bị nhiễm mặn  trầm trọng, nước mặn ngày càng lấn sâu vào đất liền vì nhiều nguyên do khác nhau. Nhưng lý do chính yếu là do việc thiết lập thiếu thận trọng (!) các đập thủy điện trên thượng nguồn làm cho mực nước sông xuống thấp và không đủ lưu lượng để đuổi mặn trong mùa khô.  Nhưng đứng trước nhu cầu xuất khẩu tôm vì cần ngoại tệ, chính quyền địa phương và trung ương khuyến khích việc chăn nuôi thủy sản nầy, do đó dân chúng đổ xô vào khả năng kinh tế có lợi nhuận to lớn  mà tự do khai mương mở rạch để dẫn nước mặn sâu vào nội địa và khai khẩn việc nuôi tôm.  Việc làm nầy trước mắt tuy có đem lại phúc lợi cho người dân và nhà nước, nhưng trong dài hạn sẽ là một đại nạn cho toàn vùng... Nước biển sẽ mang nguồn sulfide từ biển vào sâu trong đất liền, và sẽ làm tăng lượng acid sulfate trong đất. Và chất sau nầy có thể là một trong những nguyên nhân phóng thích arsenic, một nguyên tố cực độc, vào nguồn nước sinh hoạt của dân chúng trong vùng.

 

Một thí dụ thứ hai: Nhằm đẩy mạnh xuất khẩu để có thêm ngoại tệ, chính quyền khuyến khích việc tăng gia diện tích trồng cà phê. Và dân chúng đổ xô vào việc phá rừng để trồng cây công nghiệp cho nhiều năng xuất nầy. Rừng bị phá không theo một quy hoạch hay điều nghiên nào. Nhiều nơi trên vùng cao nguyên vì thiếu nước tưới tiêu trong mùa khô mà một số nông trại bị thiệt hại trắng! Thêm nửa, vì nạn phá rừng bừa bãi, lớp đất mặt không có nơi tựa nhờ vào các rễ cây rừng, cho nên bị xói mòn trong mùa mưa và đất trở thành chai mòn không thể khai khẩn được trong vài mùa sau đó!

 

Một thí dụ thứ ba: Vì nhu cầu điện khí hóa nông thôn, chính quyền đã ưu tiên đầu tư vào việc nhập khẩu thiết bị cần thiết cho việc xây đập thủy điện từ hơn mười năm về trước. Và vì không điều nghiên kỹ lưỡng tác hại môi trường của đập thủy điện cũng như không học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, Việt Nam đã có một lực lượng lao động đáng kễ cho công nghệ nầy và một số thiết bị lỗi thời... Tệ hại hơn nửa, để giải quyết vấn đề lao động, chính quyền đã cho xây cất nhiều đập thủy điện ở miền Trung là nơi có những con sông với độ dốc thấp không thích hợp cho việc xây đập! Việc làm nầy đã gây di hại lớn là nhiều nơi không còn đủ nước để trồng trọt cho vùng trên.

 

Ba thí dụ trên là những chứng minh hùng hồn rằng, hơn lúc nào hết và trong giai đoạn phát triển sơ khai nầy, việc cân bằng bài toán phát triển và môi trường là ưu tiên hàng đầu cho chính quyền hiện tại. Thế hệ tương lai Việt Nam sẽ đánh giá chúng ta qua hành động nầy. Và thành quả hay thất bại sẽ nằm trong tay quí vị có thẩm quyền ngày hôm nay.

 

Người Việt Nam thứ 80 triệu sẽ ra đời vào năm nay. Nạn nhân mãn, nạn thiếu dinh dưởng, nạn tụt hậu... luôn luôn chờ đợi chúng ta từng giờ từng phút và thời gian không còn là nhân tố thuận lợi cho chúng ta như trước kia nửa.

 

Mai Thanh Truyết

  3/9/99

//////////////////////////////////////////////////