TOÀN CẦU HÓA NGÔN NGỮ

Danh từ toàn cầu hóa đã trở thành một từ quen thuộc trong ngôn ngữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Nói đến toàn cầu hóa, đa số đều liên tưởng đến sự toàn cầu hóa về kinh tế, chính trị, kỹ thuật, phát triển và môi sinh... Nhưng còn một yếu tố thiết nghĩ cần phải nhấn mạnh thêm trong lãnh vực văn hóa là vấn đề ngôn ngữ. Do đó, nội dung của bài viết nầy nói lên một vài mối quan tâm về sự toàn cầu hóa ngôn ngữ, hay đặc biệt hơn nữa, Anh ngữ trong hiện tại là một sinh ngữ quốc tế có khả năng áp đặt và ảnh hưởng lên văn hóa của các quốc gia trên toàn thế giới.


Trên thế giới, hiện có khoảng trên dưới 500 triệu người đang sử dụng tiếng Anh như là một quốc ngữ, và khoảng phân nửa dân số dùng Anh ngữ như là một ngôn ngữ thứ hai. Hiện tại, số lượng người đang học tiếng Anh tại các quốc gia tăng dần và theo dự báo sẽ có phân nửa nhân loại sẽ thông thạo tiếng Anh năm 2050. Sụ áp dụng tiếng Anh vào chương trình giáo dục của các quốc gia đã trở thành một nhu cầu cần thiết trước tiến trình toàn cầu hoá ngày hôm nay.


Dù phải chấp nhận hay phủ nhận, Anh ngữ hoàn toàn đã được xem như một "linga franca" (ngôn ngữ giao tiếp) cho truyền thông toàn cầu. Câu "Anh ngữ là một sinh ngữ quốc tế" đã được Brian Paltridge phát biểu đầu tiên trong kỳ hội nghị về ngôn ngữ tại Đông Tây Học viện thuộc đại học Hawai năm 1978. Từ đó, có rất nhiều thảo luận đã được khơi mào về tính chất phức tạp trong việc xử dụng Anh ngữ như là một ngôn ngữ của thế giới. Tính phức tạp nầy thể hiện trong cả hai phần lý thuyết và thực hành. Và cũng bắt nguồn từ đó, có rất nhiều bài viết trong các đại học lưu ý và cảnh báo về tính áp đặt của Anh ngữ. Dư luận quần chúng khắp nơi cũng bắt đầu lưu tâm đến vấn nạn nầy vì quan niệm rằng sự dung nạp Anh ngữ vào chính quốc có thể làm xói mòn các giá trị văn hoá của dân tộc.


Nói cho rốt ráo, việc sử dụng Anh ngữ đã tăng trưởng và dự phần trong hầu hết các lãnh vực như hội nghị, thương mãi, giáo dục, nghiên cứu, điện ảnh, âm nhạc, du lịch, và ngay cả trong các ngành đặc biệt như hàng không, hàng hải, tin học và truyền thông. Hiện tượng nầy đã xảy ra khắp toàn cầu từ các thành phố văn minh ở Âu châu cho tới các vùng thôn dã của các quốc gia ở Phi châu hay Á châu. Cho dù ở bất cứ nơi nào, cho dù có nhiều dị biệt về văn hóa, phong tục và tôn giáo, Anh ngữ cũng đã được sử dụng nhuần nhuyễn dưới hai dạng nói và viết để thông đạt đến các mục tiêu truyền thông. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới một góc độ khác, nhiều người đã bắt đầu nghi ngờ sự tiện dụng của Anh ngữ sẽ trở thành một nhân tố tiêu cực trong tiến trình toàn cầu hóa của sinh ngữ nầy.


Kể từ các thế kỷ trước, và tương tự như các sinh ngữ thực dân như Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh ngữ cũng được sử dụng như một sinh ngữ chính ở các xứ thuộc địa. Học sinh ở những quốc gia không nói tiếng Anh, đã được cổ súy và khuyến khích học Anh ngữ song hành với các ngoại ngữ khác để được tiếp cận với văn minh và văn hóa Tây phương.


Anh ngữ tại Hoa Kỳ


Hoa Kỳ là một hợp chủng quốc và thời gian lập quốc chỉ vừa hơn 220 năm. Quốc gia nầy thể hiện một tính đa văn hóa thực sự. Hơn bất cứ quốc gia nào trên quả địa cầu, Hoa Kỳ đã hiện có 85 ngôn ngữ khác nhau đang được giảng dạy trong hệ thống giáo dục trong nước. Các ngoại ngữ lần lần chiếm giữ vai trò quan trọng tùy theo mật độ dân cư ngoại quốc cư ngụ trong từng học khu giáo dục. Sự nhìn nhận Hoa kỳ là một melting pot cách đây hơn nửa thế kỷ có lẽ không còn thích hợp cho ngày hôm nay.


Vì, xã hội Hoa Kỳ hiện tại không còn là một xã hội thuần nhất và cuốn hút văn hóa của các sắc dân di dân nữa. Xã hội Hoa kỳ hiện tại là một xã hội đa văn hóa. Chính sự đa dạng văn hóa nầy làm cho Hoa Kỳ tiến nhanh và tiến tự nhiên theo tiến trình toàn cầu hóa. Sống ở Hoa Kỳ lần lần ta không còn cảm thấy mất cội nguồn, mà ngược lại, những nét đặc thù tinh túy của dân tộc lại càng thêm khởi sắc vì sự chung đụng giữa các văn hóa dị chủng khác nhau. Tiến trình tòan cầu hóa tại Hoa Kỳ chẳng những không biến các bản sắc văn hóa của các di dân thành một, mà là một tập hợp các dị biệt văn hóa của từng sắc dân. Sau cùng tất cả quy tụ lại thành một khối đa văn hóa, tuy khác biệt nhưng không mâu thuẩn, tuy đặc thù nhưng vẫn sống hài hòa trong một xã hội thực sự đang tiến vào kỷ nguyên mới của toàn cầu. Hoa Kỳ là hình ảnh nhỏ minh họa cho sự toàn cầu hóa: nhiều dân tộc Đại Hàn, Việt Nam, Trung Hoa, Phi, Ấn, Á Rập, Mễ, Trung Mỹ, Đông Âu, v.v...sống chung đụng nhau. Melting pot là hình ảnh táo, nho, xoài, mận, cam quit để chung lại quậy tán nhỏ thành một melting pot, là dân Mỹ. Đó là hình ảnh không còn nền văn hóa gốc. Khoảng hai thập niên gần đây, người ta hình dung lại Hoa Kỳ là một salad bowl, rau cải, cà rốt, tô mát, hành, ngò,...ở bên nhau, vẫn giữ những mùi vị đặc thù của chúng, nhưng vẫn có cái chất kết hợp như dầu, dấm, tiêu, muối,...để làm nên một salad bowl.


Tại Hoa kỳ, các di dân, một nguồn nhân lực đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào kinh tế của quốc gia nầy, được giảng dạy Anh ngữ như một sinh ngữ thứ hai (English as a second language_ESL) trong tiến trình hội nhập vào đời sống và văn hóa địa phương. Tuy có để ý đến nguồn gốc của người di dân, nhưng chính sách trên có mục đích duy nhất là giúp người di dân sớm hội nhập vào dòng chính của xã hội Mỹ, và dĩ nhiên, sau đó người di dân ít có điều kiện để sử dụng ngôn ngữ của nguyên quốc nữa. Có chăng là chỉ xử dụng trong phạm vi gia đình và các ngôn từ của quốc gia gốc sẽ lần lần bị quên lãng (trường hợp của trẻ em Việt Nam sống tại Hoa Kỳ).


Trên bình diện thế giới, Hoa Kỳ lần lần chiếm lĩnh thế thượng phong trong tư cách một siêu cường và lãnh đạo thế giới trong các lãnh vực quân sự, kinh tế, chính trị, và công nghệ. Do đó, nếu muốn đuổi kịp theo các đà tiến hóa trên, các quốc gia khác không còn con đường nào khác hơn là phải học và biết Anh ngữ. Từ hiện tượng trên, hầu hết các quốc gia không nói tiếng Anh, đặc biệt nhất là những quốc gia đang phát triển bắt đầu chấp nhận và sử dụng Anh ngữ trong giao tế, xem như đây là một phương tiện cần thiết để tiến thân mà chưa nhận thức được rằng Anh ngữ sẽ là mầm mống ảnh hưởng bất lợi lên nền văn hóa của họ trong tương lai. Hơn nữa, với tư cách thượng phong và siêu cường, Hoa kỳ đã làm cho người Mỹ có thái độ cao ngạo, tự cao tự đại trong việc tiếp cận với các nền văn hóa khác trên thế giới. Việc học một sinh ngữ khác Anh ngữ đối với người Hoa Kỳ không là một nhu cầu cần thiết. Trong hệ thống giáo dục Hoa Kỳ ở bậc trung học, chỉ có một vài ngoại ngữ được ghi vào chương trình học như Pháp, Đức, Tây Ban Nha, và Nga... và học sinh chỉ cần hoàn tất bốn lục cá nguyệt để đạt được tiêu chuẩn tốt nghiệp. Ngược lại, trong hầu hết các hệ thống giáo dục Âu châu và Á châu, học sinh cần phải trải qua bốn niên học để hoàn tất học trình sinh ngữ.


Anh ngữ tại Pháp


Có thể nói nước Pháp là một quốc gia cưỡng lại sự áp đặt của tiếng Anh trong mọi giao dịch. Có lẽ vì tự ái dân tộc, và cũng có lẽ vì người Pháp bảo thủ và không thich học thêm tiếng nước ngoài? Hàng năm chính phủ Pháp vẫn chi tiêu hàng trăm triệu Mỹ kim cho các chương trình hỗ trợ tiếng Pháp ở nước ngoài, đặc biệt là các quốc gia thuộc địa cũ, trong đó có Việt Nam.

Người Pháp đã từng hãnh diện về văn minh, văn hóa của họ. Họ vẫn còn đang tự hào về một sắc dân thuần chủng gaulois, văn minh nhất thế giới ở thế kỷ 21 nầy. Họ cũng đã phủ nhận Anh ngữ như là một ngôn ngữ của toàn cầu. Hậu quả, dân Pháp là một trong những dân tộc kém ngoại ngữ trên thế giới. Với những suy nghĩ trên và cung cách tiếp cận còn khép kín trong hành xử và trong tư tưởng, với tâm khảm đầy tự hào và tự mãn dân tộc, người Pháp từ ở thế cường quốc số một trên thế giới từ thế kỷ 19, đã đi xuống và tuy vẫn được xem là một cường quốc nhưng tiếng nói của nước Pháp bớt được lắng nghe.


Với tầm quan trọng của Anh ngữ trước tiến trình toàn cầu hóa, cũng như cảm nhận được tính cực đoan và bảo thủ của dân Pháp. Người Pháp, trong lãnh vực internet, cố gắng dịch thuật các từ thông dụng trên truyền thông tin học ra Pháp ngữ mà đôi khi không hiểu rõ ý nghĩa thực sự của các từ đó. Đại để như CD rom ra Cédérom, start-up ra jeunes pousses, hoặc stock option ra option sur titre. Quốc gia nầy đã thể hiện hai luồng tư tưởng hoàn toàn trái ngược và có cung cách hành xử không giống ai trước sự toàn cầu hóa ngôn ngữ. Hiện tượng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược thật rõ ràng. Chính quyền và người dân Pháp không đi cùng một hướng. Kể từ tháng 2/2000, chính phủ Pháp đã đề ra trong luật an toàn không lưu về việc sử dụng Anh ngữ khi đi và đến phi trường De Gaulle (Paris). Nhưng phi công Pháp vẫn không chấp hành luật trên và vẫn dùng Pháp ngữ trong trao đổi. Năm 1994, Bộ trưởng Giáo dục Pháp Claude Allègre yêu cầu các nhà nghiên cứu, khoa học gia trình bày bằng Anh ngữ trong khi viết khảo luận hay báo cáo; kết quả cho thấy rằng tuyệt đại đa số các tài liệu nghiên cứu từ Pháp vẫn hoàn toàn được soạn thảo bằng Pháp ngữ.


Anh ngữ áp dụng cho các quốc gia trên thế giới


Trên thế giới ngày nay, người Hoa Kỳ không gặp khó khăn trong khi giao dịch thương mãi hay đi du lịch vì họ biết rằng Anh ngữ sẽ được xử dụng bất cứ nơi nào họ định đến. Ngược lại, du khách khi nhập cảnh vào Hoa Kỳ phải cần thông dịch viên hay phải có một trình độ Anh ngữ để trao đổi với người Mỹ trong mọi dịch vụ. Trên thế giới, tất cả phi công thương mãi đều được huấn luyện bằng Anh ngữ để được thống nhất thi hành các quy luật an toàn không lưu. Trong truyền thông, công nghệ tin học, Anh ngữ cũng được sử dụng cùng khắp. Tại Liên Hiệp Quốc, mặc dù Anh ngữ chỉ là một trong bốn sinh ngữ chánh được dung trong các văn kiện chính thức trong đó có Pháp, Nga, và Hoa ngữ, nhưng tiếng Anh vẫn được hầu hết các đại biểu dùng để trao đổi lẫn nhau.


Vậy, đứng trên bình diện của từng quốc gia, vấn đề được đặt ra là: Các ảnh hưởng của việc toàn cầu hóa ngôn ngữ cần phải được duyệt xét lại để tìm một hướng đi phù hợp với điều kiện văn hóa và phong tục của từng địa phương? Phần trình bày tiếp theo sẽ nói lên tính đặc thù của một số quốc gia trong phương cách hóa giải hoặc cân bằng vấn nạn toàn cầu hóa ngôn ngữ.


Đức Quốc: Trước hết, Đức quốc với chủ nghĩa dân tộc cực đoan trước đây đã làm náo động thế giới qua hai cuộc đại chiến và làm tê liệt thế giới một thời gian. Ngày nay, lãnh đạo Đức đã nhận thức được sự sai lầm trên và lần lần điều chỉnh kể từ sau thế chiến thứ hai. Ngôn ngữ chính là Đức ngữ đã được tiếp thu thêm nhiều từ mới từ Anh và Pháp ngữ. Hiện tại, người dân Đức đã học và trao đổi với thế giới bên ngoài bằng Anh ngữ và phát sinh ra một ngôn ngữ đặc trưng gọi là Denglisch, một điều thật hiếm hoi so với người Đức bốn thập niên về trước. Đức là một cường quốc đứng thứ tư trên thế giới hiện tại trên bảy cường quốc đứng đầu.


Trung Quốc: Gần chúng ta nhất là Trung Quốc, một quốc gia hầu như đi ngược lại hoàn toàn với Hoa Kỳ trên phương diện toàn cầu hóa. Từ ngàn xưa, xã hội Trung Quốc là một xã hội phong kiến lấy nông nghiệp làm nền tảng. Hơn 50 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa với biết bao kế hoạch nhảy vọt trên giấy tờ...Trung quốc vẫn còn bị xếp vào hạng các quốc gia đang phát triển. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan vẫn cho phép người Trung Hoa suy nghĩ với một cung cách tự mãn và chính họ vẫn tự công nhận xuất thân từ nguồn gốc của một dân tộc thượng đẳng "con trời" (Thiên tử) và tổ quốc Trung Hoa là trung tâm của nhân loại. Họ vẫn còn tự ru ngủ với những áng văn chương tuyệt tác, những bài đường thi tứ tuyệt vượt thời gian và không gian...của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu...


Và cuối cùng họ chơi vơi, chới với trước tiến trình toàn cầu hóa. Xã hội Trung Quốc, tuy đã mở nhiều so với hai mươi năm trước đây, nhưng vẫn chưa đủ mở vì các lực cản của chế độ chuyên chính đang áp đặt lên đất nước Tàu.

Nhưng trong vòng 10 năm trở lại đây, Trung Quốc đã áp đặt Anh ngữ vào chương trình giáo dục từ lớp ba bậc tiểu học. Hiện tại, có khoảng trên dưới 100 triệu người Trung Hoa có khả năng tiếng Anh trong giao dịch.


Iceland: Tại quốc gia ốc đảo Iceland, mặc dù toàn thể dân chúng đều thông thạo Anh ngữ, nhưng dưới mắt của Mary William Walch, Icelandic là một ngôn ngữ ái quốc (patriotic language) bất khả xâm nhập và thay thế. Nhưng trên mạng lưới truyền thông internet, Anh ngữ vẫn được sử dụng và Microsoft đã "vứt vào sọt rác ngôn ngữ Icelandic" (lời của M.W. Walch). Microsoft cũng đã từ chối chuyển window 98 ra ngôn ngữ ái quốc của quốc gia nầy. Trước hiện trạng trên, Iceland cố gắng chuyển ngữ các từ trên window thành ra các từ Icelandic mới với mục đích bảo tồn ngôn ngữ của chính quốc. Điều nầy đã làm cho giáo sư Arnason ở đại học Iceland không đồng ý và căm phẩm, vì dưới mắt ông đây là một nguy cơ to lớn vì "học sinh cầm máy computer, và ngôn ngữ của computer sẽ trở thành ngôn ngữ được áp dụng cùng khắp ngay cả nơi nhà bếp". Do đó vấn nạn nầy sẽ đưa đến một nguy cơ khác là làm thế nào để cho trẻ con Iceland trong tương lai còn nói được tiếng Icelandic.


Na Uy, Thuỵ Điển, Phần Lan, và Hoà Lan: Ngược lại, các quốc gia vừa nêu đã dung hợp được các khuynh hướng đối nghịch cực đoan và chấp nhận những từ Anh ngữ như là những ngôn từ mới của Na Uy và làm giàu thêm kho tàng danh từ khoa học và truyền thông cho quốc gia.


Ghana: Tại Ghana (Phi châu), dân số của quốc gia nầy khoảng 9 triệu người và có khoảng hơn 50 ngôn ngữ khác nhau được sử dụng trong mọi dịch vụ. Hiện tượng đa ngôn ngữ nầy làm cho Anh ngữ trở thành một thứ ngôn ngữ trung gian ở cấp giáo dục trung học, đại học và các dịch vụ công cộng. Đa số báo chí nơi đây ấn hành bằng Anh ngữ. Đài phát thanh quốc gia chuyển đạt tin tức cũng bằng Anh ngữ ngay cả ở nông thôn.


Việc sử dụng Anh ngữ đã mang lại nhiều kết quả tích cực trong giáo dục, truyền thông, và hiệu năng trong việc điều hành quốc gia, nhưng ngôn ngữ nầy cũng đã bắt đầu đưa đến nhiều mối quan ngại cho chính quốc Ghana. Dòng sóng ngầm của chủ nghĩa đế quốc có thể xảy ra bất cứ lúc nào từ sự áp đặt ngôn ngữ trên vì hiện tại dù muốn dù không, Ghana cũng không thể nào tách rời được hấp lực chính trị-kinh tế của Hoa Kỳ. Hiện trạng phân liệt do hai yếu tố chính trị và xã hội đã chia người dân Ghana làm hai loại công dân. Đa số người Ghana nói được tiếng Anh có thái độ hống hách, tự cao tự đại và tỏ vẻ khinh miệt các đệ nhị công dân Ghana không nói được tiếng Anh. Tình trạng nầy có thể làm hủy diệt các thổ ngữ của Ghana trong tương lai.


Nhật Bản: Qua trường hợp Nhật bản, việc xâm lấn của Anh ngữ đã thể hiện một hình thức rất khác biệt. Nicholas Christof đã nhận định trong một bài viết trên báo New York Times rằng giới trung niên và bô lão Nhật bản lộ rõ hai trạng thái tâm lý phiền nảo và bất ổn. Họ phải trực diện với nhiều thách đố trong sinh hoạt hàng ngày như phải nhận diện các bảng chỉ đường mới, khó khăn trong việc chọn lựa món ăn trong các thực đơn ở hàng quán hay truy tìm các quán ăn có nhà vệ sinh. Hơn nữa, họ gặp thêm nhiều cản ngại trong việc đọc sách, xem truyền hình, theo dõi tin tức, sử dụng máy điện toán và trầm trọng hơn cả là việc tiếp cận và thông cảm thế hể trẻ của Nhật bản.


Trong một quốc gia có truyền thống dân tộc cao như Nhật mà hầu hết mọi diễn đạt được trình bày bằng Anh ngữ hay "ba rọi" làm người Nhật lớn tuổi không hài lòng. Các từ du nhập từ Anh ngữ như Sutaato botan thay thế cho Start button, Kurikku thay thế cho Click, Paati menyuu cho Party menu, Ruijiana sutairu kurabukeeki cho Louisiana-style crab cakes... thể hiện tính thời thượng ở giới thượng lưu nhưng rất "cà chớn" về phương diện ngôn ngữ học. Lứa tuổi trung niên quan ngại cho tương lai của Nhật bản. Tuổi trẻ Nhật bản ngày càng chìm đắm trong khuynh hướng chấp nhận Anh ngữ làm ngôn ngữ chính cũng như ngôn ngữ Japlish (tiếng Anh-Nhựt) ngay cả trong điều kiện họ có khả năng diễn đạt nhuần nhuyển bằng ngôn ngữ của chính quốc. Ảnh hưởng của tiếng Anh càng hiện rõ thêm qua sự phân biệt hai thế giới sống khác biệt áp dụng cho lớp trẻ và lớp già tuy cùng nhau chia một mái nhà Nhật bản.


Nhật bản phải chịu ở thế bại trận năm 1945 khi đất nước hoàn toàn bị tàn phá về đủ mọi mặt. Nhưng người Nhật chấp nhận sự nhục nhã chấp nhận đi theo bước chân Mỹ để khôi phục lại kinh tế cho đất nước. Họ tự cởi trói, thoát khỏi những tập tục cổ truyền không còn thích hợp với tiến bộ mới. Họ chấp nhận sự du nhập một số "văn hóa Hoa kỳ" vào văn hóa dân tộc cực đoan, từ bỏ không luyến tiếc những tập tục có thể gây trở ngại cho đà phát triển theo chiều hướng toàn cầu. Họ đã chấp nhận Anh ngữ là một ngôn ngữ chính thức sau Nhật ngữ trong hành chánh và trao đổi quốc tế. Và Nhật, ngày nay là một cường quốc đứng thứ hai sau Hoa kỳ.


Việt Nam: Trong trường hợp Việt Nam, ảnh hưởng của văn hóa và ngôn ngữ Pháp rất quan trọng kể từ cuối thế kỷ 19. Vào giữa thế kỷ 20 có thể nói rằng hầu hết trí thức từ Bắc chí Nam đều xử dụng Pháp ngữ một cách rành rọt. Trong chương trình giáo dục trung học và đại học Việt Nam thời đó, Pháp ngữ là một ngôn ngữ chính dùng cho việc giảng dạy. Nhưng cho đến niên học năm 2000, trong kỳ thi tốt nghiệp trung học trên toàn quốc với tổng số 528.380 học sinh, chỉ còn 18.006 thí sinh chọn Pháp ngữ, trong khi đó có 471.585 thí sinh chọn Anh ngữ (và chỉ trên dưới 10 ngàn chọn Nga ngữ làm sinh ngữ chính). Nói tóm lại, Anh ngữ đã chiếm lĩnh toàn cầu trong hầu hết mọi lãnh vực trên hành tinh nầy.


Đối với Việt Nam, tâm lý chuộng Anh ngữ đã xâm nhập lên mọi sinh hoạt của người dân, đặc biệt nhất là ở các thành phố lớn. Hơn bao giờ hết, xã hội Việt Nam đã cho chúng ta thấy một hình ảnh rạch ròi nhất trong tinh thần chuộng Anh ngữ ngày hôm nay. Muốn đạt đến đỉnh cao địa vị kinh tế-chính trị-xã hội, ngoài tính "hồng hơn chuyên" người dân cần phải "thông thạo" Anh ngữ. Hầu hết những cửa ngõ cho tương lai đều phải bắt đầu bằng Anh ngữ. Từ đó một số bản sắc dân tộc có thể lần lần biến mất do sự du nhập vào xã hội những "văn minh" Tây phương không phù hợp với tinh thần Việt Nam.


Thay lời kết


Để kết luận, dù chiếc huy chương nào cũng có hai mặt, nhưng thiết nghĩ cũng cần phải cân nhắc để có thể giữ thế thăng bằng cho xã hội. Nếu nhìn trên bình diện tích cực, hiện tượng toàn cầu hóa Anh ngữ đã giải quyết một phần nào vấn nạn nghèo đói ở một số quốc gia đang phát triển, làm cho đời sống của người dân ở các quốc gia nầy từng bước được nâng cao hơn về nhiều mặt. Nhưng nếu nhìn về một khía cạnh khác, nếu chính quyền bản xứ không sáng suốt, tâm lý và dân trí người dân không được chuẩn bị và cân nhắc kỹ lưỡng thì việc tòan cầu hóa ngôn ngữ sẽ làm đão lộn cả hệ thống văn hóa-xã hội- kinh tế-chính trị của những quốc gia đang phát triển.


Việt Nam đã có truyền thống văn hóa lâu đời và bền vững. Nhưng lịch sử cũng đã chứng minh rằng, trong thời Pháp thuộc và trong chiến tranh gần đây xã hội-phong hóa Việt Nam đã bị ô nhiễm, đã có nhiều rạn nứt và xáo trộn không những vì hệ lụy của chiến tranh mà cũng vì tinh thần "vọng ngoại" trong đó Pháp ngữ ngày xưa và Anh ngữ ngày nay là một trong những thước đo giá trị trong nấc thang xã hội Việt Nam.


Sự xâm lăng của tiếng Anh đối với Việt Nam là một cơ hội và cũng là một nguy cơ có thể lấy mất bản chất dân tộc Việt. Tiếng Anh đồng nghĩa với sự tiến bộ, phát triển và tiếng Việt bị hiểu là lạc hậu, không thức thời theo suy nghĩ của một số không nhỏ người Việt ở hải ngoại cũng như ở quốc nội. Việc du nhập tiếng Anh vào Việt Nam là một con dao hai lưỡi. Biết sử dụng thì sẽ giúp cho đất nước tiến bộ rất nhiều, còn không sẽ mất bản sắc dân tộc như Phi Luật Tân. Qua quá trình hội nhập tiếng Anh trong vài thập niên gần đây, thiết nghĩ Việt Nam có nguy cơ trở thành Phi hơn là Nhật Bản. Một khi dân tộc bị đánh mất bản sắc của mình thì chỉ còn là con rối, chờ cho ngưới ta dựt giây mà thôi.


Ngôn ngữ quốc gia là một hồn nước và phải cần được bảo vệ để tránh các áp đặt hay trấn áp như một số nhà ngôn ngữ học cảnh báo do sự toàn cầu hóa ngôn ngữ gây ra. Khái niệm về sự kiện nầy đã là một thực tế đang diển tiến trên toàn cầu. Do đó, muốn tránh khỏi sự cuốn hút của sức mạnh toàn cầu hóa trên, các quốc gia đang phát triển cần phải có một tầm nhìn dân tộc và nhân bản mới hy vọng bảo tồn được hồn nước cho dân tộc. Nên nhờ rằng, dù Anh ngữ là một ngôn ngữ toàn cầu nhằm mục đích thông tin, trao đổi và đối thoại giữa các quốc gia đối tác trên thế giới. Nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải hội nhập và áp đặt hoàn toàn Anh ngữ trong giao dịch mà quên đi ngôn ngữ của chính quốc. Bỡi lẽ, ngôn ngữ chính quốc mới thực sự thể hiện được hồn nước và văn hoá dân tộc. Đó mới đích thực thể hiện tính đặc thù của từng quốc gia.

Đừng vì lợi nhuận trước mắt, đừng vì nhu cầu phát triển kinh tế cấp bách, và cũng đừng vì phải bảo vệ chiếc ghế quyền lực mà bỏ quên hồn nước thiêng liêng của dân tộc.


Mai Thanh Truyết

VAST – 3/2009


//////////////////////////////////////////////////