Viện Đại Học Cao Đài và chúng tôi:

Một duyên tình dang dở

 

Xin Tri ân:

 

Ông Khai Đạo Phạm Tấn Đài

Ông Bảo Học Quân Nguyễn văn Lộc

Ông Chưởng Ấn Hợi

Ông Thừa Sử Lê Quang Tấn

Ông Truyền trạng Danh, Tổng thơ ký Viện 1973-1974

Ông Giáo hữu Dương Văn Trị, Tổng thơ ký Viện 1974-1975

và những tín hữu Cao Đài khác

đã trực tiếp hay gián tiếp giúp đở chúng tôi

trong việc xây dựng Viện Đại Học Cao Đài.

 1-     Khái quát về Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

 

​​
Về lịch sử, niềm tin và tổ chức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ - ngắn gọn hơn, Đạo Cao Đài-xin xem:"BULLETIN OF THE SCHOOL OF ORIENTAL  AND AFRICAN STUDIES. UNIVERSITY OF LONDON, published by THE SCHOOL OF ORIENTAL AND AFRICAN STUDIES .AN INTRODUCTION TO CAODAISM. Vol. XXXIII Part 2, 1970".

Xin lên net, Google: Viện Đại Học Cao Đài.

Nói riêng, chúng ta có một số hình ảnh sinh hoạt Viện Đại Học Cao Đài trong những năm 1971-75, xem http://caodai giaoly.free.fr/vien đai học hoặc http://daotrang.free. fr/

Riêng vế Cấu Trúc Tổ Chức Phân Quyền ở Tòa Thánh Tây Ninh, nên đọc.

Quyền Vạn Linh: http://caodaism.org/1004/llqvl.htm

Đạo Luật Năm Mậu Dần: http://www-personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/dluat-02.htm

Chánh Trị Đạo. Khai Pháp Trần Duy Nghiã: http://www-

personal.usyd.edu.au/~cdao/booksv/ctd-01.htm

Vì Đạo Cao Đài thờ Chúa, Phật, Lão, Khổng, và nhiều thần linh khác nên có thể hiểu Đạo Cao Đài là một syncretism.  Vã lại từ Hiệp Thiên-trong Hiệp Thiên Đài-cũng làm cho người ta nghĩ là một syncretism.  Như vậy, đa giáo đồng lưu và hiệp thiên trong Đại Đạo..


 

Nhưng theo Ông Bảo Học Quân, một chức sắc thiên phong trong ban thế đạo  thì Đạo Cao Đài là một monotheism - nhứt thần giáo.  Chỉ có Đấng Chí Tôn, duy nhật, chỉ MỘT mà thôi.  Nhưng chúng sinh - ai ai cũng mang một cái gương vọng ngã, do thấm nhuần nền văn hóa của môi trường sống, mà nhìn Đức Chí Tôn, ở Tây Âu thì thấy Chúa, ở các xứ Á Rập thì thấy Ala, ớ Trung Quốc thì thấy Khổng, Lão, Phật, ở Án Đô thì thấy Brhama, vân vân,...

 

Một trong những đặc điểm trong sinh hoạt tâm linh trong Đạo là cơ bút.  Những nghi thức-rituals-thuộc lãnh vực nầy rất nghiêm túc. Có thể nói là tất cả những nghi thức tụng niệm thờ phượng khác của Đạo đều rất nghiêm túc, tương đối với những nghi thức tụng niệm hay cấu siêu cầu an ở đông đão chùa chiền.

 

2-     Khái quát về Viện Đại Học Cao Đài

 

Về nghị định thành lập, hình ảnh, xin lên mạng: http://caodai giaoly.free.fr/vien dai hoc

hoặc http://daotrang.free. fr/

 

Trong cái nhìn giới hạn của chúng tôi thì Viện Đại Hoc Cao Đài được thành lập do sáng kiến của quí vị Thời Quân, nói riêng, Ngài Khai Đạo, và ông Bảo Học Quân trong ban thế đạo.  Viện khởi đầu dự trù: một Phân khoa Nông Lâm Súc và một phân khoa Thần Học. Trên thực tế, Viện có thêm phân khoa Sư Phạm.

 

Về Phân Khoa Thần Học (theology), vì không là tín đồ, và cũng chưa là tín đồ nên chúng tôi hoàn toàn dốt.

 

Cả hai phân khoa Nông Lâm Súc và Sư Phạm đều có hai cấp, mỗi cấp là hai niên học. Chương trình học được soạn thảo dựa trên cơ sở chương trình các Trường Nông Lâm Súc và Sư Phạm Sàigòn, nói các khác là theo những tiêu chuẩn quốc gia.

 

3-     Xây dựng trường ốc

 

Chúng tôi gồm có một nhóm nhỏ: Ls Nguyễn Văn Lộc, Viện Trưởng, Gs. Mã Thành Công, Phó Viện Trưởng, gs. Nguyễng Văn Sâm và tôi.  Trong thực tế, điều hành hằng ngày được phân công giữa "ban tam ca" chúng tôi là Công, Sâm và Truyết.  Ông Mã Thành Công, tiến sĩ Sử Học Paris, Phó Viện Trưởng, phụ trách điều hợp hai Phân Khoa Nông Lâm Súc và Sư Phạm. Ông Nguyễn văn Sâm, Giảng sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn,  trách nhiệm về Khoa Học Nhân Văn, tôi, Mai Thanh Truyết, trách nhiệm về Khoa Học Thực Nghiệm, và Toán. Trong nhóm nhỏ nầy chỉ có Ông Nguyễn Văn Lộc là chức sắc Cao Đài.

 

Buổi lễ khai trường do Ngài Khai Đạo Phạm Tấn Đãi và Giáo sư Nguyễn Văn Trường, Quyền Viện trưởng làm chủ tọa. (Ngài Bảo học Quân Ls Nguyễn Văn Lộc, Viện trưởng đang đi chữa bịnh bên Pháp). Trong không khí trang nghiêm cộng thêm tiếng nói hùng hồn và mạnh bạo của Ngài Khai đạo làm cho khung cảnh ngày khai trường thêm đậm phần tôn giáo hơn là phần "đại học".

 

Tôi được GS Trường giao phụ trách phần nhiệm Giám đốc Học vụ của Viện để điều hành chương trình học cho hai Phân khoa Sư Phạm và Nông Lâm súc, cùng việc mời chọn giáo sư cũng như xem lại các chương trình hiện đang được giảng dạy và tất cả các phần vụ thuộc về sinh viên vụ và hành chánh v.v…(Với chức vị nầy, tôi được trả lương 20.000 Đồng/tháng thời bấy giờ). Công việc quả thật ôm đồm với một người vừa mới về nước trước đây chưa đầy 6 tháng. Do đó, ngoài công việc Trưởng ban Hóa ở Đại học Sư phạm Sài Gòn, tôi hầu như dành trọn thời gian cho Tây Ninh, quê ngoại của tôi.

 

Trước hết, nhìn qua chương trình học, vì tất cả đều tập trung trong Nội ô Tòa Thánh tọa lạc trong một khu nhà hội họp của Đạo mà tôi không còn nhớ tên. Tầng trệt dùng làm cho các lớp học và văn phòng Viện. Tầng trên là khu nghĩ qua đêm cho các Giáo sư. Các buổi ăn trưa diễn ra tại tòa nhà Thánh Mẫu kế bên cạnh với những món rau đậu đạm bạc hàng ngày dành cho sinh viên và bất cứ bổn đạo hay người dân địa phương.

 

Lần lần quen dần với với không khí và nhân sự điều hành trong vIện, tôi lần lượt quan sát thêm và thấy Viện Đại học Cao Đài sao mà nghèo quá, không có gì hết, vì tôi vẫn còn mang hình ảnh của một Viện đại học Tây phương. Và chính nhờ những hình ảnh đó mà tôi có nhiều thiện cảm với Cao Đài. 

 

Âu đó cũng là cái DUYÊN.

 

Sau hơn ba tháng quan sát, tìm hiểu, nghiên cứu chương trình và làm quen với sinh hoạt của Viện, tôi nhận thấy còn có quá nhiều điều trong chương trình giảng huấn cần phải cải sửa.

 

Tạm thời, tôi chưa dám đụng tới chương trình lý thuyết và sự phân chia giờ giấc trong các bộ môn giảng dạy vì ở phần nầy tương đối ổn định, do đó, ưu tiên thay đổi không cao. Tôi tập trung vào các chương trình tập sự và thc hành cùng việc xây dựng phòng thí nghiệm.

 

Xin thưa, từ ngày thành lập Viện Đại học, sinh viên chỉ học "chay" ngoài một số giờ cho sinh viên sư phạm đi thực tập giảng dạy ở trung học Lê Văn Trung hay trung học Tây Ninh hoặc Đạo Đức Học Đường, và sinh viên Nông Lâm Súc chỉ thực tâp… "ngoài ruộng" và trại nuôi cá Tây Ninh v.v… Còn phòng thực tập thí nghiệm hoàn toàn không có.

 

Ngoài ra phải kể sự đóng góp hữu hiệu và quí báu của ông Thừa S Tấn và ông Tổng Thư Ký Viện cùng một số nhân viên văn phòng, tài xế do Đạo bổ nhiệm.

 

Chương trình học, quy chế sinh viên, giáo sư, thời khóa biểu, thi cử trong niên học và cuối niên học, mời thầy, phòng thí nghiệm, tất tất đều phải xây dựng từ zero. Chỉ nói về phòng thí nghiệm mà thôi, cũng điên cái đầu. Không phải mua mà có ngay, và chúng tôi phải làm kế  hoạch và biến phòng ốc lại thành phòng thí nghiệm, mua hay mượn những trang bị ở các Đại Học Sài gòn, để có ngay cho sinh viên, bằng không  khoa học thực nghiệm sẽ là những bài lý thuyết 'chay'.

 

Thật không sao kể xiết. Và kết quả như một phép lạ, sau hơn sáu tháng xây dựng, Viện Đại Học đã khanh thành ngoài khuôn viên của Tòa Thánh, bên hông chợ Long Hoa. Đây là một nhà lầu ba từng, có bốn Phòng thí nghiệm: Hóa, Lý, Sinh vật gồm Động vật và Thực vật, và Địa chất. Tuy còn thô sơ, nhưng tất cả là một bước ngoặc lờn cho Viện lúc ban đầu.

 

4-     Mời gọi Quý Giáo sư

 

Chúng tôi' trong giai đoạn nầy còn có thể hiểu rộng hơn là tập hợp các gíáo chức, nhiều nguồn, nhiều ngành nghề, đã chịu khó thường xuyên lên dạy ở Viện Đại Học, theo những thời dụng biểu qui định trước. Đó là các giáo sư ở Đại học Sư Phạm Sài Gòn, Đại học Văn khoa Sài Gòn, Đại học Nông Nghiệp: Nông Lâm Súc, Đại Khoa Học Sài Gòn và một số nhân sĩ.

 

Kết quả: Trong một chừng mực nào đó, tập hợp lớn nầy là kết tinh của những đặc điểm sau đây:

 

·       Tuổi trẻ.  Hầu hết nhân viên giảng huấn đểu trong tuổi trên dưới 30.  Cái tuổi còn hiếu động, nói đúng hơn là năng động. Đa số là người ngoại đạo.

·       Tham vọng. Tham vọng mỗi người mỗi khác, vì lớn lên trong những hoàn cảnh khác biệt, theo đó mang theo những giá trị văn hóa khác biệt, cách nhìn cuộc sống, triết lý về cuộc sống, cái gì cũng khác.  Thế nhưng, cái mộng làm cho cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn đã tiềm tàng trong mỗi con người chúng tôi. Và Viện Đại Học Cao Đài là cơ duyên, là môi trường cho tuổi trẻ khai phá, xây dựng, Xây dựng một đại học trên vùng đất mới là đem đại học vào tầm tay người địa phương-đặc biệt là giới thiếu phương tiện về học ở Sài Gòn. Đó cũng là góp thêm một bước cho việc đại chúng hóa Đại Học.

·       Tinh thần khai phá - the pioneer spirit. Đó là tinh thần tiên phong, đi trước, như ông cha chúng ta khởi xướng trong  từng giai đoạn của cuộc Nam tiến.  Đó cũng có thể là gương sáng của quí vị khai đạo và tùy duyên đến vùng đất mới dẫn dắt chúng sanh. Tuy nhiên, không hẳn in như vậy. Mỗi cảnh mỗi khác, mỗi thời mỗi khác.

 

Tôi không rõ tâm trạng của người xưa trong những khó khăn trước mặt.

 

5-     Với tôi, (lời bộc bạch của GS Nguyễn Văn Trường)

 

Khai phá là đi vào cái mới, đất mới, lãnh vực mới…, ở đó, chưa một ai đến, chưa một ai khai, chưa một ai phá, để xây dựng cái mới.

 

Cái mới là cái chưa biết.  Cái chưa biết nào cũng có những bất ngờ, không trù liệu trước được. Cho nên, tiến trình khai phá là một tiến trình phiêu lưu. Cuộc phiêu lưu nào có những hiểm nguy của nó. Vì vậy, người tiên phong phải có một tầm nhìn xa và rộng, và phải can đảm nhận trách nhiệm về công trình khai phá.

 

Hơn nữa giáo dục, dù là giáo dục Đại Học, vẫn bao hàm cái ý ổn định, vững chắc. Dạy học là chuyển giao những giá trị qui định trong chương trình học. Những giá trị nầy, ít nhất là cho đến 4 năm đầu Đai Học, phải là cổ điển, tức là được công nhận là vững bền. Dân tộc, nhân bản và khai phóng là phương châm chỉ hướng cho nền giáo dục của chúng ta thời bấy giờ.

Nói khác hơn là trong một chừng mực nào đó, ta muốn cột giữ học sinh sinh viên ta trong lòng dân tộc, trong những giá trị ngàn đời của cha ông, mà ta thiết tha kính giữ.  Con người mà chúng ta đào tạo cũng phải thấm nhuần tính người, tình người, nhưng không là một mẫu người trừu tượng hay là con người chung chung của muôn nơi muôn thuở, mà phải là con người của dân tộc nầy, trong thời khoảng lịch sử nầy trước đã.

 

Cho nên, dạy học là cột con người hai lần: cột vào nhân bản, chưa đủ, cột thêm vào dân tộc, cho chắc. Ý thức rõ như vậy, người dạy đương nhiên thấy có nhu cầu khai phóng: người cột phải mở. Tùy lứa tuổi, tùy trình độ học viên, lối dạy phải khoáng đạt, nhiều chiều, và trong mỗi chiều có thuận có nghịch.

 

Dầu vậy, nội dung, ngoại trừ các đề tài luận án, đều phải cổ điển, được công nhận là những giá trị cơ bản vững bền.

 

Người dạy, thường thường không ai là người muốn mạo hiểm.

 

Tôi, một ông giáo, tôi cũng không muốn mạo hiểm trong các công tác giáo dục của tôi.

 

Vì vậy, mà tôi phải cặn kẻ trao đổi những nghĩ suy và tính khả thi trong công tác hình thành Viện Đại Học.

 

Người tôi tiếp cận đầu tiên là Ông Viện Trưởng Nguyễn Văn Lộc, nguyên thủ tướng chính phủ. Ông rất bình dị. Chúng tôi vẫn xưng hô là anh em, nhờ vậy mà mọi vấn đề được thẳng thắng đặc ra và bàn luận.

 

·       Tiên quyết là sự an ninh trên con đường Sàigòn Tây Ninh, chỉ 99 cây số, mà nghe đâu nó xuyên ngang chiến khu của VC. Tôi được biết là Anh vẫn thường đi lên Toà Thánh bằng xe riêng hoặc xe của Tòa Thánh.  Tôi có sự xác nhận của nhiều người khác, nói riêng là của ông Thừa Sự Tấn. Tôi cũng nghĩ:  Những người sống về nghề móc túi, bấm giây chuyền, nói chung là kẻ trộm cắp, luôn luôn hoàn lại cho khổ chủ nếu khổ chủ là người trong khóm, nơi trú ngụ của mình.  Trong cái suy nghĩ đó, thiết nghĩ VC, phải giữ an ninh cho tuyến đường Sài gòn-Tây Ninh, bằng không cái ổ ẩn trú của họ sẽ bị quậy nát, mà dân chúng không bao che cho họ.

 

·       Về viễn kiến về Viện Đại Học: hình như quí vị trong Đại Đạo nghĩ rằng:

 

1. Tây Ninh nằm trên con đường chánh đi Nam Vang;

2.  Đức Hộ Pháp có nhiều năm ngụ ở Nam Vang;

3. Ánh sáng Đại Học Cao Đài sẽ mở rộng trong hướng Cambodia,

    và vùng cao nguyên bao quanh Thánh Địa.

4. Vã lại Đạo có huyền cơ.

 

Nghĩ cho cùng thì những đại học xưa, khởi điểm rất khiêm nhường - Haward (Mỹ) bắt đầu chỉ có 9 sinh viên[1], Notre Dame[2] (Mỹ) là một đại học Công Giáo mà phải 2 năm sau mới được công nhận, Đai Học Sorbonne khởi đầu là một Viện Thần Học, và đến Cách Mạng Pháp (1789) bị đóng cửa[3],..

 

Tôi không tổng quát hóa. Tôi cũng không lấy tiêu chuẩn thời thượng mà đo lường đại học thời nay. Tôi nghĩ tương lai của một đại học là do mức độ đóng góp của các thế hệ tốt nghiệp đại học đó vào sự nghiệp chung của nhân loại. Tôi cũng nghĩ giáo dục là đầu tư dài hạn.  Giáo dục nhằm vào con người: trí tuệ, tình cảm, tính tình. Mà con người chỉ có thể là một diễn trình chỉ chấm dứt khi con người ấy yên nghỉ dưới ba tất đất.

 

Cho nên chúng tôi thống nhất trong cái nhìn huấn luyện nghề. Ở các trường kỷ thuật lúc bấy giờ, các nghề mộc, tiện,.. đều  được qui định huấn luyện bao nhiêu giờ. Một sinh viên vào trường Võ Bị Thủ Đức, sau 11 tháng ra trường là một ông Thiếu Úy. Mục tiêu của trường Nông Lâm Súc hay Sư Phạm là trang bị cho học viên một cái nghề: cán sự hay kỹ sư Nông Lâm Súc hoặc giáo sư đệ nhất cấp hay đệ nhị cấp.

 

Nói chung, huấn luyện là có lớp có lang, bài bản rõ ràng, hết bài bản là ra nghề, quen thuộc với một số thao tác, hành vi, để từ đó không ngừng cải thiện tài khéo, tùy duyên mà đổi mới cách nghĩ, cách làm, mở rộng và đi sâu vào nghề nghiệp.

 

Trang bị phòng thí nghiệm, hay xưởng máy, hay nông trường, trại chàn nuôi thực tập cho sinh viên rất tốn kém. Thiết nghĩ phải kết nghĩa với một đại học Mỹ hay Pháp, hay Canada, hay Úc. Cũng nên ghi: Từ nghĩ đến thực hiện thường có một khoảng cách khá rộng.

 

Tôi còn muốn việc huấn nghệ có những điểm đặc thù,  thí dụ của Trường Nông Lâm Súc có tác động gì với việc trồng trọt, chăn nuôi, và lâm sản địa phương. Chỉ bao nhiêu đó thôi, tôi đã lung túng. Tôi cũng nghĩ bất cứ ai cũng lung túng như tôi. Lúng túng đó là thách đố cho tôi. Tôi phải tìm học, không ở sách vở mà ở môi trường. Tôi phải lên Tây Ninh, cùng với giáo sư và sinh viên tôi khảo sát môi trường, cách trồng lạc, khoai sắn, hột điều (đào lộn hột), cách chăn nuôi, khai thác lâm sản, và thị trường. Miệt ấy, người ta dung máy John Deere của Mỹ, máy Kubota của Nhật không dùng được vì quá yếu,.. Nói chung, tôi phải biết nhu cầu của địa phương. Tôi phải tìm cho ra những sắc thái đặc thù cho hai trường Nông Lâm Súc và Sư Phạm Cao Đài của tôi.

 

Tôi nói khai phá là như vậy đó: là đi vào những vấn đề, mà giờ đây chưa có một ai biết được.

 

Khai phá cũng có thể hiểu là tôi phải trang bị các phòng thí nghiệm, chỉ nói cho khoa học cơ bản mà thôi, từ A đến Z. Và không những chỉ có vậy, phải biến các phòng ốc thành phòng thí nghiệm, có điện, có nước, có chỗ cho sinh viên thực nghiệm. Và nếu người thợ thi công, hoặc ông thầu thi công làm công quả, làm chùa, thì thúc hối cho hoàn tất, kịp thời thì quả là một điều rất tế nhị. Rồi đến nông trường, trại chăn nuôi, chuyện làm không bao giờ dứt.

 

Tóm lại, tinh thần khai phá nói ở đây là tinh thần chấp nhận thách đố, chấp nhận hiểm nguy. Trong khai phá có phiêu lưu, có những sự việc mà đến bất ngờ không lường trước được, Nhưng khai phá không trùng nghĩa với phiêu lưu. Có người nghĩ phiêu lưu là đùa giởn với số mạng, giao mình cho may rũi, được thua do thiên mạng.

 

Ở đây, khai mở một viện đại học mới, một môi trường giáo dục mới, mà bao quanh tôi là những nhà tu hành, phẩm hạnh cao. Cho nên khai phá trong bối cảnh nầy bao hàm ý thức trách nhiệm.  Riêng tôi, tối thiểu là tôi trách nhiệm đối với các đồng nghiệp, đồng sự mà nhận lời mời, hay 'rủ rê' dấn thân vào công trình chung, và nhất là đối với sinh viên của tôi. Vì vậy, mà có lắm điều, tôi vấn hỏi anh Lộc.  Giờ, không nhớ hết được, chỉ ghi lại đôi điều như trên đây. Nhờ vậy mà ý thức được cái biết của mình thì giới hạn, mà cái dốt của mình thì vô cùng,  Cũng nhờ vậy mà lăn xả vào việc, không ngại khó, không ngại gian nan, không ngừng học hỏi,  tôi luyện khả năng, tài khéo (skills), trí tuệ và tính tình. Đó cũng là xem đổi thay là đương nhiên, cuộc sống là một giòng chảy không ngừng đổi mới,

 

Thiết nghĩ, đông đảo bạn bè tôi chia xớt quan điểm nầy.

 

Và nhìn lại, tôi có nhiều may mắn.

 

6-     Với tôi,

 

Vừa nhận việc ở Đại Học Sư Phạm Sàigòn, với tôi, bây giờ là Mai Thanh Truyết, được giao ngay cho Ban Hóa.  Ngay trong những tuần lễ đầu, tôi đã phá sự an ổn, cái sức ỳ đã lậm trong một số đồng nghiệp của tôi. Trong một cuộc sống an nhàn dài dài, không ai muốn đổi thay. Tôi có sắp xếp lại. Và sau cùng lạ còn rủ rê mấy ông bà đại giáo sư của tôi đi chùi rữa cầu tiêu cầu tiểu của trường. Tuy vậy, vẫn có nhiều người hưởng ứng, có nhiều phản ảnh tốt, cũng có những người không hài lòng.  Những người nầy lại tế nhị, không phản ứng. Tôi chỉ cần có như vậy, chỉ mong tạo một vết dầu loan.

 

Ở Pháp, tôi không khó khăn có một chỗ làm, một công việc mà tôi thích. Thật không phải là thần tiên, nhưng chắc chắn là ổn định và có thể thoái mái trong nhiều năm. Tôi không về xứ của tôi để tìm một sự ổn định.  Chọn vào Sư Phạm, là trong tiềm thức của tôi, tôi đã chọn sự ổn định. Đó là cho vợ, cho con. Còn lại, tôi dành cho hoài bảo của tôi. Đất vừa ra khỏi thuộc địa, dân trí thấp, chiến tranh liêng miên, liên tục, đêm đêm có khi còn nghe tiếng súng, thì tôi, có an bình đi học ở Pháp, nay đến lược, phải tận lòng đóng góp trong giới hạn khả năng của mình.

 

Và tôi đã lên Tòa Thánh, tôi có đọc tìm hiểu Đai Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôi phải làm việc với quí vị chức sắc trong Đạo. Nói riêng, Ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, Ông Viện Trưởng và ông Tổng Ký Viện là người của Đạo.  Đông đảo sinh viên của Viện là con em của người trong Đạo.

 

Tôi không có nhân viên giảng huấn tại chỗ. Chị Măng là người duy nhất tại chỗ và cũng là người trong Đạo, nhiều khả năng và nhiều nhiệt thành, là trưởng phòng phòng thí nghiệm của chúng tôi. Tuy nhiên, Chị quá hiền, quá khiêm tốn. Và điều nầy giới hạn khả năng đóng góp của Chị rất nhiều. Dầu vậy, Chị vẫn là duyên may mắn cho tôi.

 

Bên cạnh Trường Đại Học Sư Phạm, có hai trường Trung Học của Đạo là Trường Lê Văn Trung[4] và Đạo Đức Học Đường. Ngoài thị xã Tây Ninh còn có Trường Trung Học Tây Ninh. Đó là những cái nôi cho sinh viên Sư Phạm chúng tôi đi thực tập và cũng là lò để chúng tôi mời và tuyển chọn giáo sư hướng dẫn.

 

Và tôi đến lúc tôi vừa quen thuộc các địa danh, và biết chút ít về Tây Ninh và một ít địa danh nầy, Bến, Bàu, Gò, Long, Trảng như Bến Cầu, Bến Ván, Bến Kéo,Bàu Gõ, Bàu Vừng,  Bàu Năn, Gò Chùa, Gò Dầu Hạ, Long Hoa, Long Giang,Trảng Bàng, Trảng Gùi, thì : 30/4/1975, Viện Đại Học bị đóng cửa.

 

Chúng tôi bị giải nhiệm.

 

Rồi,

 

7-     Hồi ức

 

42 năm qua đi, một dấu mốc thời gian quá dài để ghi lại những hồi ức trên. Ghi lại không phải là một tiếc nuối. Nhưng ghi lại để người sau biết thế hệ đi trước vẫn có có những người con Việt tiên phong cho sự trường tồn của Đất và Nước.

 

Ngưi "đời sau", chúng tôi muốn nói; đó là những người đang sống trong một chế độ bưng bít, khép kín với thế giới bên ngoài, chế độ không hề biết đến danh từ "khai phóng" cho dân tộc ngoài những danh từ sặt mùi chủ nghĩa không tưởng đang đầu độc các thế hệ tiếp nối của Việt tộc.

 

Người con Vit vn còn đy ry khăp năm châu vi mt nim tin vng chc là s có ngày xây dng li quê hương Vit.

 

Xin cẩn bút.

 

Nguyn Văn Trường và Mai Thanh Truyết

Hiu đính và b túc 12/2017

 

Phụ Chú:

 

[1] Harvard is the oldest institution of higher education in the United States, established in 1636 by vote of the Great and General Court of the Massachusetts Bay Colony. It was named after the College's first benefactor, the young minister John Harvard of Charlestown, who upon his death in 1638 left his library and half his estate to the institution. A statue of John Harvard stands today in front of University Hall in Harvard Yard, and is perhaps the University's best known landmark.

Harvard University has 12 degree-granting Schools in addition to the Radcliffe Institute for Advanced Study. The University has grown from nine students with a single master to an enrollment of more than 20,000 degree candidates including undergraduate, graduate, and professional students. There are more than 360,000 living alumni in the U.S. and over 190 other countries.

[2] The University of Notre Dame began late on the bitterly cold afternoon of November 26, 1842, when a 28-year-old French priest, Rev. Edward Sorin, C.S.C., and seven companions, all of them members of the recently established Congregation of Holy Cross, took possession of 524 snow-covered acres that the Bishop of Vincennes had given them in the Indiana mission fields.

A man of lively imagination, Father Sorin named his fledging school in honor of Our Lady, in his native tongue, "L'Université de Notre Dame du Lac" (The University of Our Lady of the Lake). On January 15, 1844, the University was thus officially chartered by the Indiana legislature.

Father Sorin's indomitable will was best demonstrated in 1879 when a disastrous fire destroyed the Main Building, which housed virtually the entire University. Father Sorin willed Notre Dame to rebuild and continue its growth."I came here as a young man and dreamed of building a great university in honor of Our Lady," he said. "But I built it too small, and she had to burn it to the ground to make the point. So, tomorrow, as soon as the bricks cool, we will rebuild it, bigger and better than ever."

[3] The Collège de Sorbonne was a theological college of the University of Paris, founded in 1257 by Robert de Sorbon, after whom it is named.[1] With the rest of the Paris colleges, it was suppressed during the French Revolution. It was restored in 1808 but finally closed in 1882. The name Sorbonne eventually became synonymous with the Parisian Faculty of Theology. In more recent time, it came to be used in reference to the entire University of Paris. It is now the name of the main campus in the Ve arrondissement of Paris, which houses several universities (heirs to the former University of Paris) as well as the Paris rectorate. Wikipedia.

 

[4] Được biết ông Trần văn Tuyên, và Chu Tử là hai vị hiệu Trường của Trường Lê Văn Trung. Trấn văn Tuyên (1951-1954), Chu Văn Bình, tự là Chu Tử (1954-1957)

________________________________________

Mai Thanh Truyết

https://maithanhtruyet1.blogspot.com/

https://www.facebook.com/envirovn


"
We carry our homes within us
;

which enables us to FLY"




t

MỤC TIÊU VĨNH CỬU

TRONG ĐẤU TRANH CỦA NGƯỜI VIỆT

YÊU NƯỚC CHÂN CHÍNH


Trên bước đường đấu tranh vì quốc gia dân tộc và dân chủ cho đất nước, chống Cộng sản, chúng ta hầu như phải đối mặt với những diễn biến bất ngờ có khả năng bị vướng mắc vào những sự kiện hoặc tình tiết mang tính cục bộ, cho nên trong sách lược đấu tranh, chúng ta cần nên luôn luôn phải tự cảnh giác, dự trù phân biệt rõ rệt những phản ứng mang tính chiến thuật và kế hoạch hành động nhằm mục tiêu chiến lược lâu dài.

Bài viết này có mục đích kiểm điểm lại và nhận diện thực lực, nói nôm na là nguồn vốn ở giàn phóng để sẵn sàng cất cánh hướng về mục tiêu đã định ở chân trời, tạo một cái khung mẫu lý luận và thực tiển trao đổi giữa các thức giả có quan tâm, xây dựng một tầm nhìn rộng và xa cần thiết trong hành động.

1-     Kiểm điểm và nhận diện thực lực đấu tranh

Trải qua 42 năm từ khi Cng sản Bắc Việt xâm chiếm miền Nam Việt Nam cho đến nay, ước lượng đã có khoảng ba triệu người Việt rời bỏ đất nuóc, sang định cư ở nuóc ngoài, trải rộng từ Âu Mỹ sang Úc, Á. Tùy theo các thể chế chánh trị khác nhau nhưng thuộc thế giới tự do, các nước tạm dung này nói chung đều tạo điều kiện cho nguòi Việt tỵ nạn cố gắng vượt qua những khó khăn hiển nhiên ban đầu, đạt được một cuộc sống vật chất tương đối ổn định, trong khi bà con thân thuộc tại quê hương phải sống triền miên trong đói nghèo dưới một thể chế chánh trị kềm kẹp khắc nghiệt sắt máu, tập trung củng cố đặc quyền cho một giai cấp  cán bộ cng sản nắm giữ quyền sinh sát trên cơ sở công thức "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý" kèm theo chiếc bánh vẻ dối trá "Nhân dân làm chủ"!

Vì nhu cầu sống còn trên đất lạ quê nguòi, người dân Việt tỵ nạn không còn con đường nào khác hơn là con đường phấn đấu gian khổ, cực lực lao động mưu sinh tạo dựng lại sự nghiệp, mở đường cho bản thân và cả con cháu thăng tiến qua con đường học vấn hội nhập huóng về tương lai.

2-     Thành quả thật là rỡ ràng.

Chỉ trong khoảnh khắc thời gian không bao lâu, đã thấy xuất hiện khắp nơi,ở các nước tạm dung, một số khu phố với các cửa hàng doanh nghiệp hầu như ngành nào cũng có, thể hiện bản sắc Việt Nam qua các bảng hiệu bằng tiếng Việt. Nổi bật nhất có thể ghi nhận là các văn phòng luật sư, bác sĩ, nha sĩ, địa ốc, điện toán,… cung ứng các dịch vụ đòi hỏi trình độ đào tạo truòng lớp đại học có chọn lọc, chứng tỏ tiềm năng hội nhập và thăng tiến của con người Việt Nam ở xứ người.

Một số hàng quán phục vụ ăn uống, giải trí vui chơi do chính nguòi Việt làm chủ cũng đua nhau nở rộ theo thời trang, nói lên tính trù phú sung túc về vật chất của người dân Việt tỵ nạn bên cạnh những cộng đồng thuộc các sắc dân khác. Khuynh hướng hưởng thụ vui chơi này hẳn nhiên cũng có những mặt tiêu cực làm nảy sanh một giới cả trẻ lẫn già sa vào vòng tiêu cực  vì đồng tiền mà phải lao vào cảnh tù tội vốn không dung tha cho ai cả.

Tuy nhiên, song song, cũng đã hình thành và xuất hiện các hội đoàn thuộc các ngành nghề khác nhau về văn hóa, xã hội, giáo dục v.v…, kể cả hải lục không quân trong hàng ngũ quân lực Việt Nam Cộng hòa, quy tụ các thành viên, các đồng đội, đồng nghiệp đã từng chen vai sát cánh sống chết bên nhau trong nghề nghiệp, trên chiến trường, ở quê nhà.

Người ta tìm lại nhau, để ăn uống, để trao đổi thông tin cùng chia xẻ những vui buồn và nhất là những kỷ niệm tủi nhục trên bước đường lưu vong. Từ đó, các cộng đồng nguòi Việt tỵ nạn đã đuọc tổ chức thành những bộ máy quản lý điều hành theo quy chế theo khuôn khổ quy định của nhà nước Hoa Kỳ, tạo căn bản pháp lý cho các sinh hoạt công cộng, hòa nhập vào dòng chính lưu của xã hội bao quanh đồng thời khai thác hưởng dụng dịch vụ y tế, xã hội hiện có của nhà nước nầy.

Tại Hoa kỳ, địa danh "Little Saigon" được chánh thức công nhận đặt cho một thành phố có khoảng hơn ba trăm ngàn nguòi Việt sinh sống tại Nam California (Hoa Kỳ), mệnh danh là "thủ đô của người Việt tỵ nạn" mang lại niềm tự hào dân tộc, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở và gợi lại hình ảnh đau thương của một thủ đô đã bị đánh mất về tay Cng sản xâm lược ở quê nhà từ tháng tư năm 1975 và nay  đã bị Cộng sản đổi bằng tên Hồ Chí Minh.

Đột nhiên, vào tháng 1 năm 1998, cũng tại Little Saigon kể trên, đã nổ ra "vụ Trần Trường". Trần Trường vốn cũng là một người Việt tỵ nạn, nguyên đã lập ra đuọc một cửa hàng khai thác dịch vụ bán và cho thuê băng video ở khu phố Bolsa, đã lặng lẽ treo hình Hồ chí Minh và cờ đỏ ngôi sao vàng Việt nam Cng sản trong cửa hàng  Hành động này đã đánh thức bà con Việt trong vùng, nổi lên một phong trào tự phát ít ai ngờ là đã kéo dài đến 52 ngày đêm, quy tụ có ngày đến hơn mười ngàn người trong đó, có cả những người từ các địa phương xa đến, nói lên sự phẩn nộ của người dân Việt tỵ nạn căm thù Cộng sản.

Sự kiện này cũng đã phơi bày ra ánh sáng một thực tế không ai có thể phủ nhận được là trong các cộng đồng người Việt tỵ nạn có những thành phần cộng sản mà giới bình dân thường gọi là "bọn Việt cộng và Việt gian nằm vùng". Sự xâm nhập của Cộng sản nằm vùng vào trong cộng đồng người Việt tỵ nạn ở các nước tạm dung nói chung và tại Hoa kỳ nói riêng, đều phát xuất từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cần nhớ rằng trong hàng ngũ các thuyền nhân vượt biên, CSBV, theo một kế hoạch đã định sẵn, đã có tổ chức gài người của họ vào, nhứt là trong nhóm người Hoa gọi là "các nạn kiều"  được CSBV cho ra đi theo diện bán chánh thức, mở ra rất nhiều khả năng thương lượng điều kiện tương nhượng để đôi bên cùng có lợi.

Ngay trong diện H.O. dành cho các cựu tù nhân chánh trị, được phép ra chánh thức ra đi, bao gồm các quân nhân, công chức Việt Nam Cộng hòa đã bị Cng sản lùa vào các trại cải tạo, rồi được thả về, cũng có các thành phần Cng sản làm ra và sử dụng "Giấy ra trại" giả lấy tên những trại viên xấu số đã chết trong thời gian giam cầm, để làm hồ sơ xuất ngoại, cho đến nay không bị phát hiện. Rồi từ đó, qua ngả kết hôn với người Việt tỵ nạn, các thành phần Cng sản nầy cũng đã thu xếp cho con cháu và cán bộ trà trộn vào. Ngoài ra cũng cần phải nói thêm là CSBV lợi dụng khe hở trong vấn đề tôn giáo của chánh phủ Hoa Kỳ, vì thế cho nên, trong hiện tại, chúng ta thấy trong các chùa chiềng, nhà thờ…chấp chứa bao nhiêu tu sĩ "giả mạo" sang Mỹ dưới "nhản hiệu" …du học qua visa "tôn giáo".

Theo lý lẻ thông thường, vụ Trần Trường đã gióng lên tiếng chuông báo động và cảnh tỉnh đối với nguòi dân Việt tỵ nạn rằng  đã đến giai đoạn CSBV đã chứng tỏ, qua hành động, sự hiện diện của chúng tại các nước tạm dung, bắt đầu công khai thực hiện sách lược lũng đoạn  hàng ngũ người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ rồi. Và nhiều người đã tiên đoán sự kiện nổi bật này chắc chắn sẽ có tác dụng nung nấu và phát huy thêm tinh thần tranh đấu chống Cng sản tại đất Nam Cali và sẽ lan rộng khắp nơi.

Nhưng những gì thực sự diễn ra sau đó không đúng như nguòi ta tiên đoán, bởi lẽ những làn sóng chống đối nổi lên tiếp đó không tập trung vào đối tượng CSBV, mà lai dội trở ngược vào sự lấn cấn nội bộ bao quanh việc quản lý thùng tiền do đồng bào đóng góp trong các buổi tụ họp đêm ngày đả đảo tên Trần Trường! Sự chống đối này làm phát sinh lời qua tiếng lại ồn ào đả kích lẫn nhau giữa các nhân vật có liên quan, có tác dụng gây rạn nứt trong nội bộ người dân Việt tỵ nạn, dư luận quần chúng nói chung; rồi cũng lần hồi từ từ lắng dịu qua thời gian, và đâu cũng vào đấy.

Từ thời còn sanh tiền và tranh đấu, mô hình đấu tranh của Giáo sư Nguyễn ngọc Huy lưu lại:

* Phân công rõ rệt trong tổ chức;

* Hải ngoại ym trợ kể cả việc huy động hậu thuẩn của quốc tế;

* Xây dựng thực lực trong nước.

 

Hiện tượng phân hóa mang tính biểu kiến. "Maladie enfantile" trong đấu tranh chống Cng sản là bước đường tự nhiên trên bước đường đấu tranh phát triển và hội nhập.

3-     Xác định mục tiêu vĩnh cửu trên bước đường đấu tranh


Những người Việt thành tâm yêu nước mà chúng tôi mạn phép mệnh danh là những Việt yêu nước chân chánh, cần được phân biệt hẳn với người Việt Cộng sản yêu nước giả hiệu. Những diễn biến lịch sử xảy ra trong những thập niên qua đã cho mọi người thấy rõ thủ thuật gian trá của CSBV trong việc vận dụng chiêu bài "yêu nước" triệt để khai thác tinh thần dân tộc vốn đã nằm trong huyết quản của mọi người dân Việt bình thường.

Từ đó, chiêu bài trên được tô vẻ thêm với thêm khẩu hiệu "yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" kêu vang, kích động đóng góp sức  lao động hy sinh  hết mình, thực sự chỉ càng ngày càng củng cố quyền lực và quyền lợi của một cấu trúc đảng viên cng sản chặt chẽ ăn chịu với nhau, trên cương vị là tư bản đỏ bóc lột tận xương tủy người dân bị khép vào khuôn khổ của một chánh sách toàn trị không tài nào cất đầu lên nổi.

Những bài học lịch sử:

* Chiến tranh chống thực dân Pháp;

* Thỏa ước Fontainebleau để tạo chỗ đứng tiêu trừ phe quốc gia;

* Loại trừ Phan Bội Châu và các thành phần quốc gia;

* Liên minh công nông;

* Chánh sách đấu tố cải cách ruộng đất;

* Xâm lược quốc gia Việt Nam thực  áp đặt chế độ cng sàn theo chiến lược toàn cầu của cộng sản quốc tế do Liên Sô và TC cầm đầu.

 

4-     Thay lời kết

Trò chơi dân chủ không xa lạ gì với quy luật đào thải.

Mặc dù Nghị quyết 36 vẫn lừng lững qua nhiều bẩy sập như tiền tài, "một chỗ đứng" ở Việt Nam …"ngày mai", hoặc cuối cùng là bị "blackmail" qua người đẹp chân dài v.v…, người Việt hải ngoại cần nên tự nhũ là mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vĩnh viễn cơ chế chuyên chính vô sản của CSBV.

Trong suốt 42 năm qua, chúng ta đã thấy và "sáng mắt" biết bao đoàn thể, nhóm tranh đấu giống như như con trốt từ trên nền đất xoay chiều cuốn hút, ngày càng lên cao; để rồi cuối cùng bị CSBV bỏ lại, sau khi đã "vắt chanh hết nước" hay hoàn tất một mục tiêu ngắn hạn nào đó của chúng.

Đó là những tổ chức và thành phần theo đuổi mục tiêu giai đoạn CSBV, để rồi cuối cùng cũng bị… đem con bỏ chợ.

Gương tày tiếp còn đó, gương phản bội dân tộc, bán mình cho TC của CSBV còn đó!


Trong một bài viết ngày 28/3/2017 của tác giả Phê Bình đề tựa "Mai Thanh Truyết lại đào huyệt chôn mình" đăng trên Học Viện Chính Trị.

Xin trích đoạn:

·       Việc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam là thực hiện sứ mệnh lịch sử mà dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động trao cho Đảng, đó là sự lựa chọn sáng suốt của lịch sử.

·       Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi ích nào khác.

·       Mai Thanh Truyết cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức độc tài, không có thiện ý, phi dân chủ, không còn vai trò lãnh đạo xã hội… Cố tình xuyên tạc, đổi trắng thay đen, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hành động "phản nước, hại dân" trái ngược với nguyện vọng, sự lựa chọn đúng đắn của đông đảo nhân dân Việt Nam.


Qua những lời lẽ trên của Ô/B Phê Bình (có thể là tiếng nói của CSBV vì đã đăng trên Học Viện Chính Trị của họ?), chúng ta thực sự thấy rõ mưu cầu của "Đảng ta" (còn giai cấp nông dân đã được nâng lên hàng đầu từ 1945 mà "bây giờ" "đảng" bỏ đi đâu rồi?). Mà ngày nay, hai giai cấp nầy và nông dân là những thành phần cùng đinh nhứt của xã hội so với trước năm 1975 ở miền Nam, và trước 1954 ở miền Bắc.

Và những người con Việt còn lại của chúng ta đã thấy, đã sống qua hai giai đoạn trên,  chắn chắn sẽ tồn tại với dân tộc, vi đât nước gồm những phần tử cốt lõi tinh hoa, cang cường gắn bó với mục tiêu vĩnh cửu của dân tộc, vượt thắng Cộng sản, giải phóng dân tộc, giải phóng 95 triệu con Việt thoát ác nô lệ của CSBV và của TC.

Điều sau nầy, chắc chắn sẽ xảy ra trong một tương lai không xa.

Mai Thanh Truyết

Viết t hin tượng "Trn Trường"

Houston, 12-2017

 

Phụ lục:

nguyenthimynguy

Mục tiêu đấu tranh của các bạn dân chủ nghe mà mắc cười lắm em à. Nhưng CS không đối phó được. Họ sẽ đánh tan hạ tầng cơ sở của Cộng Sản, Ba Đình sẽ xup đổ, không cách nào cứu vãn được. Đây là cuộc chiến tranh toàn dân tộc, không giới tuyến, ngay trong lòng chế độ . Bọn CS phải bó tay. Không có lãnh tụ để CS bắt, không có đoàn thể để CS xâm nhập, không có kế hoạch để CS phá. Cộng Sản không còn lối thoát.

Mỗi ngày chặt một đảng viên.

Mỗi người thịt một đảng viên.

Cho nòi giống Việt Rồng Tiên thoát Tàu.

Lâm Viên • an hour ago

T/G Mai Thanh Truyết "được" một tay Cộng gộc [vì bài đăng trên Học viện chính trị] nêu tên như vậy thì ông đích thị là một người Việt yêu nước chân chính. Một người chống cộng 100%.

Kính chúc ông một mùa Giáng sinh vui vẻ và Năm mới an khang để tiếp tục viết những bài chọc thủng tim đen của chúng." Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà". Kính .

lưu vong hành • 13 hours ago

"…mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vĩnh viễn cơ chế chuyên chính vô sản của CSVN"

Muốn làm được như thế thì phải có lập trường chứ không phải oang oang cái mồm như mấy đứa" tôi chỉ chống cái ác chứ không chống cộng, tôi chỉ chống cường quyền, không được lật đỗ (chính quyền) VN vì được LHQ công nhận".

Điều đáng nói ở đây là những người tụ tập với chúng vờ vịt như không nghe, không biết!

Mà những người lên tiếng phản đối lại bị chúng chụp mũ, chụp nón cối!

Như chuyện tên Lê Minh Nguyên (tiến sĩ tự phong) chụp mũ dư luận viên cho những ai vạch mặt những phát ngôn theo mùa của ngài "ráo sư ngô bảo trâu" trong khi vẫn nhận ân huệ của việt cộng từ máu mủ người dân! Bưng bô như Lê minh nguyên đến thế là cùng!

Vậy hỏi làm sao mà đứng chung được?

Nam Nguyen • 8 hours ago

Rất cám ơn giáo sư Mai thanh Truyết qua bài viết chính.

Tôi bắt đầu đọc DLB chưa được lâu, (6 tháng), thì đây là lần đầu tiên tôi đọc một bài chính của ts Mai thanh Truyết có tính chạm nọc VC rất nhiều, thông thường tôi chỉ biết gs Truyết qua những bài viết hơi nặng về chuyên môn và đặc biệt là về môi trường.

Có lẽ vì lý do này, bài chính của tg (lần đầu tiên theo tôi), đã bị bọn DLV sờ mó chút chút, và điều đáng tiếc đã xảy ra là trong phần comment đã có nhiều rác rến từ bọn DLV. Vì vậy, đã xuất hiện nhiều cái chổi từ Còm sĩ để quét đống rác CS nầy.

Kính chúc gs Mai thanh Truyết và gia đình một mùa Giáng Sinh vui và một năm mới như ý.

 

 

 

 

 

Lê Cửu Long • an hour ago

T/giả MT Truyết viết:"Ngay trong diện H.O. dành cho các cựu tù nhân chánh trị, được phép chính thức ra đi, bao gồm các quân nhân, công chức Việt Nam Cộng hòa đã bị Cộng sản lùa vào các trại tù cải tạo, rồi được thả về, cũng có các thành phần Cộng sản làm ra và sử dụng "Giấy ra trại" giả lấy tên những trại viên xấu số đã chết trong thời gian giam cầm, để làm hồ sơ xuất ngoại, cho đến nay không bị phát hiện".

Vì tôi sống ở VN, nên chuyện này, tôi quá rành, nhưng tôi viết, sẽ không có ai tin, vì tôi đã bị chụp cả NGÀN lần đủ thứ mũ : VC nằm vùng, DLV Cao Cấp, Giả SQ QLVNCH... . Anh MT Truyết viết như thế, thì những đứa HO đi theo đúng DIỆN này, CÂM MIỆNG HẾN (nhưng câu này, mà do tôi viết, thì chúng nhảy xổ ra, dùng ngôn ngữ thô bỉ nhục mạ tôi).

Không có gì khó để nhận diện đám này, vì 1 SQ thực sự của QLVNCH, thì không 1 trường hợp nào, không 1 lý do gì lại Phỉ Báng, Mạ Lỵ Tập Thể Các Chiến Sĩ ĐPQ- Nghĩa Quân thuộc QLVNCH:

"Tụi nghĩa quân chúng hay làm PHẢN lắm. Chúng mở cửa đồn cho VC vào giết Anh em".

Điều đáng lên án là: Còm sĩ này CHÍNH THỨC Mạ lỵ Tập thể Các Chiến Sĩ ĐPQ-NQ, nhưng được gần như toàn bộ " phe ta " Thương Yêu, Ủng Hộ.

Anh MT Truyết có bàn về cách và mục tiêu đấu tranh, tôi có ý kiến:

Vì tôi đấu tranh theo kiểu CÒN NƯỚC, CÒN TÁT, nghĩa là làm hết sức mình, cho dầu kết quả mong manh, chứ không buông xuôi, đầu hàng, nên nhìn vấn đề rất thực tế, không bao giờ LẠC QUAN GIẢ TẠO, viết toàn SỰ THẬT, theo cách: "Phải chẩn đúng bệnh, mới trị dứt bệnh".

Muốn thắng kẻ thù gian ác, nham hiểm cs, thì người Dân trong nước phải vùng lên mạnh mẽ, chứ nhìn bọn cs đấu đá nhau, hoặc 1 vài diễn biến của Thế Giới, rồi nói rằng: Tà quyền cs chắc chắn sẽ sụp đổ trong thời gian ngắn sắp tới, thì quả thật là KHÔI HÀI, đúng là Nằm Mơ Giữa Ban Ngày, hoặc CHỜ SUNG RỤNG.

Cách đấu tranh của người Dân trong nước thì quá bết bát, còn Người Việt Hải Ngoại thì sao ? Hơn 2 ngàn đứa Người Việt Hải Ngoại mặt thớt (Tất cả đều trải qua "Thập tử Nhất sinh" trên biển) tập trung kín cả Hội trường ở San Jose để nghe thằng Triết lùn (CT Nước) nói bậy bạ, nhưng vỗ tay hoan hô như sấm, cười hớn hở, sau mỗi câu nói của Triết lùn (Chỉ cần 1/100 cái đám KHỐN NẠN này, đội lốt phe ta, chui vào DLB, là thừa sức VÔ HIỆU HÓA DLB).

Có Đại Tác Giả NVHN viết bài tán thành chuyện gởi tiền về VN, về thăm Quê Hương (nhất là dịp Tết Nguyên Đán sắp tới), kêu gọi Đồng Hương nên mua nhiều hàng hóa xuất khẩu của VC. Cả 3 chuyện này là: TIẾP TAY NUÔI DƯỠNG TÀ QUYỀN CS.

Điều đáng nói là ai phê bình, phản đối, thì lập tức bị 1 số người chửi bới, chụp mũ và dùng hết lý lẽ để bênh vực T/giả bài chủ. Chống cọng THỐI NHƯ HẠCH như thế, mà từ năm 2011 đến nay, năm nào cũng hứa hẹn là cs sụp đổ, sẽ về gặp mặt tại Sài Gòn.Cái đám không phải chống cọng,mà thực tế là CHỐNG LƯNG CHO CỌNG này, năm nào mà bọn chúng không gặp nhau ở Dinh Độc Lập để tham dự "TẾT VIỆT KIỀU" và ngoác mồm rống to "Như có Bác Hồ...", "Mùa xuân trên TPHCM", rồi sau đó, viết các bài chống cọng nảy lửa đăng trên DLB.

Dân Tộc VN hiện nay giống như 1 đội bóng đá: Dở từ cầu thủ chính thức đến dự bị, từ thủ môn tới tiền đạo, Huấn luyện viên thì quá tệ và các trận thua TE TUA không phải do đối phương ghi bàn, mà do chính các cầu thủ phe ta đá vào LƯỚI NHÀ (Điều đáng nói là khán giả phe ta không 1 lời phản đối, lại hết lời khen các quả sút vào Lưới Nhà là TUYỆT ĐẸP).

Một đội bóng tệ hại như thế, mà không bị tụt hạng hoặc giải thể MỚI LÀ CHUYỆN LẠ..

Phú Nhuận • 6 hours ago

Rất cám ơn giáo sư Mai thanh Truyết. Bài viết rất hay, nói lên rất đúng thực tế.

Không chỉ vì vài người trong cộng đồng hải ngoại về VN, bắt tay với cs mà kết luận người Việt hải ngoại thân cộng.

Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi.

Vẫn có người Việt mấy mươi năm, từ ngày ra khỏi nước đến nay chưa hề về VN, vẫn có người bỏ công sức viết lên sự thật về cs , để mọi người thấy mặt thật lưu manh vô liêm sĩ của cs, như các TG của những bài viết trên DLB nầy, vẫn có người viết còm chống đối những luận điệu dối trá gian manh ngậm máu phun người của dlc cs.

Cờ vàng vẫn tung bay, nhạc vàng bolero vẫn được hát khắp nơi.

Chính nghĩa nhất định sẽ thắng. In front of the Yellow Flag, we believe.

NGƯỜI VIỆT CHÂN CHÍNH: người Việt không tôn thờ ngoại bang Nga tàu, không đem đất nước bán cho Nga tàu, không đi lính đánh thuê cho Nga tàu để rồi giết hại mấy triệu thanh niên 2 miền Nam bắc.

YÊU NƯỚC CHÂN CHÍNH: là yêu dân tộc Việt, là làm sao để dân tộc Việt có một đời sống hạnh phúc theo luật pháp quốc tế qui định, cho nên cần tích cực đấu tranh chống lại bất cứ thế lực nào vào cướp đất chiếm nhà, vào hủy hoại đất nước Việt, biến nước Việt thành một quận huyện của tàu.

Dân tộc Việt không phải là đảng viên cs, cs chỉ có 4 triệu đảng viên, dân tộc Việt là 90 triệu, đừng hàm hồ đánh đồng với nhau.

________________________________________

Mai Thanh Truyết

https://maithanhtruyet1.blogspot.com/

https://www.facebook.com/envirovn


"
We carry our homes within us
;

which enables us to FLY"



 

Environment Impacts in Vietnam

 

                                        Prepared for International Organization for the Development

of Vietnam, The Netherlands on Feb.19, 2011

 

 

Vietnam started to open its door to the world for trade and investment since 1986, ten years after the failure of its economy's development. The purpose of this openness is trying to save the country from the edge of the collapse of its economy and finance.

 

After almost a quart-century of development and ignoring the environmental protection, Vietnam became the one of the most polluted countries in the world.

 

Ironically, the main victims of this unsustainable development are its own people.

 

They do not have the clean air to breath, the clean water for daily activities, the safe foods to eat, and other social welfare benefits for human beings in the 21th century.

 

This presentation intentionally introduces to the world the realistic situation of Vietnam that is currently governed and managed by the communist party to our beloved country.  

 

1-    Mekong River

 

The Mekong River, known as Mother Khong, splits into two branches when flowing into the Delta in South Vietnam. Those braches then are divided into nine smaller branches upon reaching the sea. The Mekong River ranks eleventh in length in the world and second for its diversity in shape.

 

In 2010, these two areas are at risk for the depleted fish stocks and the decreasing river flow due to the indiscriminate development in the upstream countries such as China, Thailand, and Laos through the compartment block leading the source of river flow to hydroelectric dams, and for agriculture purposes.

 

The Mekong River that flows through China is called Lancang on which two large dams are under constructions: the Xiaowan (4200 MW) is expected to be completed in 2013,

 

and the Noozhadu (582 MW) will be completed in 2017. The three dams currently in use are the Manwan (1996) producing 1500 MW, the Dachaosan (2003), 1350 MW, and the Gonguoqiao (2008), 75 MW. In the fall of 2010, the Jinghong dam, 1750 MW, will begin to move water into the reservoirs.

 

Another tributary flowing into the territory of Thailand is called Mae Nam Khong where water is channeled into reservoirs in Northern Thailand and would be used for the vast agricultural region.

 

Laos is the country that does not have a large demand for electrical power but still has two dams built by Vietnam and Thailand to provide power for these two countries.

 

Forests are the major natural vegetation that is very effective in regulating the flow of the Mekong River, especially during summer seasons. Tree roots and soil absorb and retain water during the rainy seasons, and will regulate and supply water to downstream to prevent saltwater intrusion into the Mekong Delta. It is a privilege of nature. But for decades, humans continue to destroy forests to the point that the Delta is suffering the consequences of the annual invasion of saltwater, and cause serious damage to hundreds of thousands of rice samples according to the statistics in April 2010, although the maximum height of the dry seasons supposes to be in late May.

 

Vietnam makes a serious mistake in building levees to retain water over the rice cultivation area with the slogan of turning "stone into rice". On the contrary, that naïve and unscientific effort resulted in the destruction of the rice crop by the flood or the long dry seasons.

 

In summary, most of the disasters to the environment and to human life are caused by humans themselves through ignorance and arrogance, too. So, don't blame Mother Nature.

 

2-    Arsenic Pollution

 

In 1961, the pollution of arsenic was first discovered in Taiwan, and later in Belgium, Netherland, Germany, Italy, Hungary, Portugal, The Philippines, Ghana, USA, Chile, Mexico, Argentina, and Thailand.

 

In 1992, the toxicity of arsenic was found as a disaster in West Bengal, India. Recently, the problem of arsenic in Bangladesh has been more serious and affected more than 23 million people in 1997, and the number rose to almost 60 million in 2005.

 

Where does arsenic come from?

 

Scientists conclude that the deposition of the arsenopyrite deep in the ground for millions of years has been carried deep into the underground water and the river sources.

 

In industry, arsenic is used as an alloy with other metals such as iron, copper, lead, mercury, nickel, and cobalt. It is also used as an anti-bacterial solution to treat wood used as electrical poles. Pure arsenic is not toxic, but when it is combined with other chemical compounds to form arsenite (As3+) and arsenate (As5+), it becomes very dangerous.

 

Human absorption of arsenic usually takes place through water and foods. The deadly human disease is caused by the intake of animal meat, shrimps, and fish living in an environment contaminated with arsenic. Porcelain cooking ware fabricated in China may also cause disease due to the presence of arsenic. The people in Bangladesh who have been used the water from the wells built by UNICEF for a quarter of a century, still do not know the disastrous presence of arsenic in the well water.

 

Until 1988, The National Arsenic Committee in Bangladesh was established in order to solve the problems involving more than 4000 affected villages. Even this country has the support of UNICEF, UNDP, UNEP, and WB, the arsenic problems still remain a calamity of the world nowadays.

 

The perspective of the pollution of arsenic in the water in Vietnam, particular at the Mekong Delta, has been a reality. The present problem is to look for ways to save the innocent Vietnamese from the danger which may affect millions of people as it has happened in Bangladesh.

 

Traditionally, the Vietnamese people living in the Mekong Delta have been using rainwater for drinking and surface water for other daily usages. They also use borax to treat arsenic presence in the sitly water. However, since 1980's, in order to prevent cholera, dysentery and otherinfectious diseases in digestive tube caused by the infected surface water, UNICEF supported and encouraged the drilling of over 300000 wells in the whole area of Mekong Delta. Here comes the disaster as Bangladesh's drama is taking place in Vietnam.

 

In order to avoid the problems, Bangladesh has experienced for decades, Vietnam has better keep their traditional way of treating arsenic with borax and boil rainwater before drinking. However, it would be better if the residents could afford to use modern technology such as the ultraviolet system of sterilization to treat potable water.

 

It is time for the UNICEF to reconsider their present policy of drilling wells for a better and safer ways for Vietnam and other poor countries in the future.

 

3-    Rivers in Vietnam

 

For the past 25 years, Vietnam has opened its door in an attempt to expedite its economic development by building over 220 industrial zones and hundred thousand chemical factories in the whole country.

 

The fast and the unprepared expansion have caused serious problems deriving from the free dumping of untreated liquid waste into the rivers which become heavily polluted. The disastrous pollution increases enormously with the time and so far there is no foreseeable ways efficient enough to deal with the present situation.

 

River Cau Basin: This area that covers 10 thousand Km2 with a population of 7 million inhabitants has been totally polluted. Approximately 40 million cubic meters of chemical waste is dumped into the river each year. Thai Nguyen is the dumping area of about 24 million cubic meters of various toxic metals like selenium, manganese, lead, tin, mercury, and other organic compounds such as insecticides.

 

River Nhue Basin: The basin of 7700 Km2 has 10 million inhabitants. It is one of the highest population density in the country. All liquid waste coming from households and manufacturing compounds have been dumped into the rivers and lakes. It is estimated that about 180 million cubic meters have been disposed of the year 2007. Ha Noi alone has more than 400 firms and about 11000 handicraft producers that also produce about 20 million cubic meters of waste yearly.

 

Dong Nai and Saigon River basin: This area covers 14500 Km2 which a population of 18,5 million. It is the largest manufacturing region and also the most urbanized one. Each year, these rivers receive about 40 million cubic meters of liquid waste disposed of by its industrial zones and an estimated million cubic from about 30 thousand small chemicals manufacturers situated around Saigon, Song Be, and Dong Nai cities. In addition, they also receive about 400 millions household liquid waste per year.

 

Tien Giang and Hau Giang River Basin: This is the largest area covering 39 thousand Km2 with about 30 million inhabitants. As the Tien and Hau Giang basin have different natural resources from the previous regions, the economic development of this area relies mainly on agriculture and fishery instead. So, the pollution in this region is different from the others. It derives from the excessive use of fertilizers, pesticides, herbicides containing DDT and others toxic chemicals that cause cancer.

 

In conclusion, it is clearly understood that the economic development in Vietnam does not go along with the protection of the environment and that as the condition of the healthful environment goes down, the level of pollution goes up.

 

In order to correct this situation, there must be a thorough and cautious redevelopment plan in which the industrial and manufacturing compounds should be appropriately relocated in order to alleviate the pressure over the existing overcrowded areas. It is important that serious manufacturing compounds should be distributed and placed in such a way that every component could make use of the products as well as the waste of each other.

 

That is the efficient way of planning for a realistic concept of industrial development zones in balance with the protection of the environment.

 

4-    Pollution of Underground water

 

Water is the most vital resource for humans, animals, and vegetation. In September, 1999 the United Nations Environment Programme (UNEP) warned that water is diminishing in the world.

 

Pollution of the surface water: The distribution of the water resource in the world is uneven, partly by the geographical conditions and the social development of each country. The daily consumption of water in the United States is 185 Gallons per day per person, compared to 1 Gallon in Africa, and 36 Gallons in Saigon, Vietnam. In the developing countries with over 1.2 billion who could not have clean water, and over 50% of people living in swampy areas are not healthy because of the increasing scarcity of water.

 

The rising of the world population leads to growing needs of water consumption. It is predicted that, in 2025, there will be 52 countries facing the shortage of water. If there is no measure in place to recycle the used water at the present time, clean water will become as precious as liquid gold in 25 years from now.

 

For the past decade in Saigon, many households have to resort to underground water by pumping from the wells because the water supply by the water companies is not sufficient and not safe. However, the underground water is not tested for its purity and is dangerous because it may be contaminated with organic compounds and various toxic metals coming from the abuse of fertilizers, insecticides, and pesticides for crop protection.

 

In conclusion, the use of the underground water in Vietnam should be limited, particularly in the areas of high elevation. The use of the underground water to foster the development of land and sea farming for the social benefit of raising the standard of living of the people is not right and not compatible with the durable trend of the global development through Resolution-21 of the United Nations. That is to expand the economy, to promote the protection of the environment, and to raise the welfare of the people simultaneously.

 

5-    Pollution of the Land

 

The term "environment" was still vague in the world community years before until 1970's when the pollution has become more and more serious. The US took the lead in establishing the rules to protect the environment.

 

However, these rules were so loose in the developing countries because they still had to solve other problems of their own countries which were more crucial than the environmental problems. This very concept has caused more serious problems that may be unsolved if it is too late!

 

The total surface area of Vietnam is estimated about 326000 Km2 of which ¾ are mountains and plains. The two main sources that cause pollution of the land are the irresponsible use of fertilizers and chemicals, and the disposal of the solid and liquid waste from factories.

 

Regarding the developing countries like Vietnam, the treatment and the disposal of household waste is still at its early stage. Trash is collected on wheelbarrows run by humans who have to get in line waiting for the collecting trucks to pick it up and dispose of it at the dumping areas. Later on, the liquid waste permeates the ground and pollutes the underground water.

 

The conditions of the industrial waste are worse. The environmental regulations and administrations in those countries were taken into account in 1990's, about 20 years behind developed countries. Even though the regulations were clearly written into the environmental laws regarding the treatment, most of these regulations have been good only on paper and most of the industrial liquid waste go directly through the sewer into main water current such as pools, lakes, rivers, and sea without being treated.

 

There have been some solutions to the above problems, either treating the polluted soil by in-site methods or off-site methods. However, so far there has not any method feasible for the treatment.

 

In a word, land, water, and air is three factors that are closely inter-related and should be maintained in balance according to our common sense. If, one of the factors is polluted, for example, the other factors would be affected, as a result of the law of Mother Nature.

 

6-    Air Pollution

 

About a decade ago, the inhabitants of Hanoi could ride their bicycles in an easy and carefree way around the city. But nowadays, the presence of over two million motorcycles has posed serious problems of traffic jams and air pollution. The situation in Saigon is even worse.

 

In addition to the pollution deriving from exhaust fume and dust, power plants run by coal or gasoline, food processing plants, and factories have contributed to air pollution in the cities. Cigarette smoking in the household and at public places is another factor that causes an unhealthy environment for the children and adults as well.

 

The cities that are most polluted are Hanoi, Saigon, Dong Nai, Vung Tau, Hai Phong, Quang Ninh, Vinh Phu, and Da Nang. The problem of pollution in those cities is double compared to the city of Bangkok in Thailand.

 

The gasoline standard consumed in Vietnam is required to have the same standard of the European countries which is equivalent to the level of 90 octane gas in the US. In reality, this standard is not reliable due to various types of frauds committed by the gas companies and retailers with the purpose to gain more profit. It is understood that the lower gas standard tampered with frauds, the worse the air becomes polluted. Economically speaking, the worker's health is negatively affected by sickness and disease caused by polluted air.

 

In conclusion, air pollution is a man-made problem. It is the result of the lack of a well-informed program of education to the public to be aware of the ways how to protect the environment. Poverty also contributes to committing frauds in tampering gasoline. More importantly, corruption among the government officials is the main factor contributing to the problem.

 

7-    Solid Waste in Vietnam

 

The crucial problem at the moment in Vietnam is how to clear up the accumulated solid waste collected from households. It is estimated that each dweller in large cities produces from 0.9 to 1.0 Kg a day and from 0.5 to 0.65 Kg in small towns, and about 9 million tons a year.

 

Presently, the environmental situation in Vietnam becomes worse and worse every day. The main cause of the environmental pollution is that the industrial development does not take place at the same pace with the environmental protection development plan.

 

Today, the two common approaches applied in Vietnam are: (1) to bury the solid waste in the ground and (2) to use the process of biodegradation. The first approach is not safe because the liquid permeates the ground and pollutes the underground water. So far, only 7% of the second approach of bio-degradation is applied.

 

Evidently, most of the landfills in Vietnam are not managed safely. A typical landfill that may be seen everywhere is an open space site that is not built properly as it is required. Eventually, it becomes a center of epidemic disease.

 

The population of the large city dwellers is only ¼ compared to other areas, but the amount of the disposed waste is equivalent ½ of the total waste in the country. That is the reason why the city dwellers are more prone to poor health than those living in the small towns.

 

People living in the cities of Da Nang and Saigon have begun revolting against the waste dumping in their vicinity. In view of the current level of urbanization, the population grows and the economic expansion in the cities would generate a larger amount of hazardous waste.

 

It is predicted that the growth in population in the cities would be 10% but the disposed waste would be 60%. The fact is that a higher living standard would create a higher level of consumption. And the higher the level of consumption the larger amount of hazardous waste is generated.

 

The danger of the environmental pollution will be inevitable and there is not a foreseeable way to remedy the situation.

 

However, a feasible approach to resolve this sluggish problem is to use the ODA (Official Development Aid) capital as an investment for the treatment project of solid waste and its leachate. Most importantly, a radical change of the absolutely rigid mentality of the authorities is needed before any better improvement could take place in the future.

 

8-    Medical waste in Vietnam

 

It is evident that the environmental protection in Vietnam has been degraded due to the fact that the government's focus is mainly on the economic development since 1986.

 

One of the causes of the above situation is the dumping of the solid waste including industrial, domestic, medical, and lastly electronic waste.

 

Medical waste is also called hospital waste as it comes from the hospital and consists of contaminated clothes, organ human waste, chemicals, discarded medical instruments, and medications…

 

Medical waste is the most contagious and hazardous to the hospital workers. It is estimated that ¼ of the medical waste is contaminated and it may have an immediate effect on humans and may spread as an epidemic.

 

Today, most of the hospitals in the developed countries use incinerators at high temperatures from 10000C to 40000C as a process of treatment of the medical waste. However, this process is still controversial because chemical ashes would pollute the air.

 

Another method is applied as an alternative method to the previous one. The medical waste would be pulverized instead of an incinerated method. The new method is better because the volume of the pulverized waste would be minimized. It costs less and would not pollute the air.

 

China and India have made progress in applying the new process of incinerator since 1998. Vietnam passed the bill on Management of Medical Waste in 1999. Ten years after the passage of the law, Vietnam has only one incinerator for 36 hospitals in Hanoi, and three incinerators for 100 hospitals in Saigon, and none exists in 64 provinces of the whole country.

 

So, what happens to the non incinerated waste?

 

The hospitals in Saigon produce about 7 tons of medical waste per month which would be collected in plastic trash cans. And no one knows what would happen next.

 

On August 29, 2007, the ABC radio in Australia reported that 300 tons of plastic material's medical waste from the hospitals in Hanoi has been converted to household utensils.

 

Disposal of liquid medical waste

 

Besides the disposal of solid medical waste, the liquid waste is no less important. Among over 1000 hospitals in Vietnam, only 1/3 of them are provided with a system for treating liquid waste. Over 35 hospitals in Saigon do not have the facilities for that purpose and the existing facilities at other 40 hospitals are not qualified because they do not meet the standards required as it was reported in 2007.

 

Also, according to the report of the Resource and Environment Services in Hanoi, one half of 400 thousand cubic meters of liquid waste pouring into river Nhue and river Day daily, and one half of the quantity come from the hospitals carrying with its germs, radioactivity, intestinal viruses, Salmonella …which would penetrate aquatic animals and plants like fish, shrimps, and "rau muống" for example.

 

The information previously stated indicates that the treatment of medical waste in Vietnam is not taken into serious considerations by the government.

 

9-    Importation of Toxic Waste into Vietnam

 

When Vietnam opened the door to the world in 1986, the importation of the disposed of materials from other countries to be recycled into new usable objects became a rather big problem. At the beginning, with the encouragement of the government to make use of the disposed of materials from abroad and the slackness from the top management, the disposed of materials have been imported uncontrollably to the point that it has become a significant industry.

 

Most of the imported disposed of materials include used papers, cardboard, soft plastic, nylon bags, glass and plastic containers, televisions, computers…

 

Facing the importation problems, The Department of Resources and Environment (DRE) issued a decree defining the protection of the environment regarding the manufacture of the materials.

 

Despite the fact that the regulations have been clearly stated the local and port authorities have a headache dealing with the disorder of the imported materials. This trouble has been arising from the beginning due to the lack of experience and knowledge in the regulations and management as well.

 

It is true that the DRE is responsible for the enforcement of the decree, and the local environmental services have the responsibility for checking, controlling, and managing the accuracy and the legitimacy of the imported materials, and to deal with the violations in due time.

 

The most important responsibility of the local environmental services is to check the existence of the facilities and the site for the materials imported. However, these services have not fulfilled their responsibility because of their laxity in controlling issuing permits. The unauthorized imported materials have never been returned to the countries of origin as it has been requested by the law.

 

In 1998, Pakistan, China, and Vietnam imported 20 million disposed televisions, and 60 million in 2005 to be recycled. Each television contains approximately 1 Kg of lead and mercury that could affect the nerve cells of the children and their intelligence if they are infected during pregnancy.

 

Another concern that needs to be brought to our attention is that, in a polarized world where terrorism is involved, the transport of concealed chemical weapons or radioactivity to get into "a transitional country" like Vietnam may become a reality with an unpredictable consequence.

 

It is likely that Vietnam may become a dumping site for the world if it remains too lax in controlling the importation of the waste materials from other countries.

 

10-  Vietnamese Food Products

 

Vietnam is facing serious problems of pollution of the air, the land, the surface water and its sediment, and the underground water, and even the food products that people consume every day. The presence of chemical contaminants in the food like vegetables, legumes, and fruits is widespread all over the country. According to the World Health Organization (WHO), 35% of the cancer victims in the world are related to the foods and the ways it is consumed.

 

Despite the fact that Vietnam has issued several measures to assure the safety of food products, during the years from 1997 to 2004, there were 6,467,448 cases of sickness caused by food contamination, among them, 194 persons died.

 

There have been 2 mains causes of the present situations: an objective cause and a subjective one. The objective cause is the polluted environment that affects vegetations and animals. And the subjective cause is the humans themselves who add chemicals to the food during the manufacturing process to maximize profits at the expenses of the consumer's health. Such chemicals as borax, sulfite, 3-MCPD, sodium benzoate, formaldehyde, urea, lead, 2,4-D, 2,4,5-T hormone, melamine… have been imported from China and widely used, misused, and abused indiscriminately from homemade business to large-scale industry throughout Vietnam with inefficient controls from local and central authorities.

 

The solution to such widespread problems needs a radical and decisive approach from the top to lower scales of management on the part of the government. We know the source of supply of the chemicals is China that has been exerting great political power and commercial invasion on Vietnam that is still incapable to produce such chemicals. It is apparent that cutting off the source of supply from China could be a reasonable solution but it is not that simple and feasible.

 

There might be two possible reasons: (1) Vietnam is not competent to educate the people and to raise their consciousness about the danger of the use and misuse of the chemicals; (2) Being ignorant of the seriousness of the danger of the chemicals, insensitive to the real needs of the people, and negligent to the children's wellbeing, Vietnam has implicitly allowed the expansion of the irresponsible system of profit-making at the expense of a stable and healthy society.

 

Anyway, the responsibility of restoring an orderly and an honest society always lies in the hands of a responsible government under any circumstances.  

11- Food Safety Sanitation in Vietnam

 

The sanitation for food safety in Vietnam has been a serious problem for the past 20 years. Victims of food poisoning have been covered almost daily on the news media. It seems that the problems tend to be increasing, and become more complicated because the chemical contaminants added to the foods are more "intricate".

 

During the first 6 months of 2010, the Health Department announced that there had been 25 people died of food contaminants, and 1/3 of 150,000 people who died of cancer are victims of the same reasons every year.

 

Vietnam has over 400 thousand food manufacturers that are officially registered and about 100 thousand are non-registered as a small family business. Due to the diversity and complexity of the food products, the Food Safety Sanitation services could hardly accomplish what they are supposed to do.

 

The Vietnamese government enacted a National Plan of Sanitation for Food Safety from a period from 2006 to 2010 to reinforce and elevate the efficiency of the management system to the international standard to protect the consumer's health and their benefits. The Plan's objectives are so optimistic that in 2010 there must be 90% of food producers and 80% of food consumers would be well informed and would perform accordingly.

 

The money allocated for the Plan came up to 78 million US dollars with the contribution from the national and local budgets, loans and aids from foreign countries. In fact, however, the situation has become worse and worse as the number of contaminated food victims increased instead of decreasing as it had been projected. Such reverse results have become customary at no surprise to the public because the reports of the inspection services are often not truthful and not reliable.

 

Food products exported to other countries often returned due to the violation of international standards of sanitation such as the contamination of antibiotic, coliform, salmonella, sulfite …in coffee, black pepper, soy sauce, dried mushrooms, dried fish,…

 

In order to solve such problems as previously stated, it is recommended that:

 

First, eradicate all sources of supply of chemicals that are illegal for use in a food product. Kim Bien open market is the main source in Saigon City.

As Vietnam presently is not capable to produce such chemicals, 90% of them have been imported from China legally and illegally. There must be ways to stop the smugglers.

The government should help the small and local business manufacturers through financial and technical aids to improve product quality and efficiency.

Education about food safety and sanitation should be required for those who are involved in the business.

It is hopeful that these basic recommendations could be implemented otherwise the conditions of food safety and sanitation would hardly be better in the future.

 

 12-  Conclusion

 

Since the years of 1960's Orson Wells had predicted the negative consequences of the free market of the capitalist system through the exploitation of the naturals resources in order to foster outcome to the utmost. From this concept, he was pessimistic about the future crisis of the world.

 

And recently, Thomas Friedman and economist and columnist pointed out the collapse of some countries rich in natural resources such as petroleum, gold, gas…because they rely solely on the natural resources as the main product of their nations. The leaders of these nations live lavishly on the fortune they collect from the country without any realistic plan to build a stable infrastructure for the benefit of all people and at the same time move to a more sustainable system of production.

 

The gross domestic product (GDP) in these countries are relatively high but the top of few percent of those in power are very rich and the rest remain very poor. Just for a comparison, let us look at some other countries whose natural resources are not abundant such as South Korea, Singapore, Malaysia, Taiwan and even Thailand. These countries have been expanding the field of manufacturing, domestic and social welfare services to improve the living conditions of the people.

 

The concept of development on these days has to be understood as to what could be accomplished on the ground and not under the ground because of the natural resources, essentially underground deposits, are exhaustible and non-refillable. This is the case that happens in some developing countries, and Vietnam is no exception.

 

Unfortunately, Vietnam has long been deluding herself being immersed in the "silver sea and gold mountain". However, gold and silver could not be found at all. The only thing that could be found is the unplanned, hasty, and irresponsible exploitation of the land, the forests, and the environment that destroy the eco-system all the way from the North to the South.

 

Irregular occurrences of storms, floods, and droughts take place more frequently. That is the consequences of the massive destruction of forests for lumber exportation.

 

When a government blindly focuses their attention and efforts only to exploit the country's natural resources but neglect manufacturing products, they are ignoring the potentials and the needs of their own people. And in that case, people would not stand behind those in power.

 

 Looking to the Future

 

The increase in the world population has become nearly alarming. Except for Europe and China, other countries in Asia and Africa cannot control their birth rates. Presently the world population comes up to over 6 billion which requires greater needs for food, healthcare, education, and environment. These needs are closely related and cause more problems that affect people's life.

 

Therefore any prospective development of any single country in the world should have a global view and consideration of the cause and effect relationship that entails the consequences of every application of all manufacturing projects.

 

The 21st century is the beginning of a huge agglomeration of all countries on the world where each one, no matter it is rich or poor, has equal voices and contributions to the protection of the world eco-system.

 

The creation of the world consortium of scientists and technologists working together as humanitarians, having the same common factors and purposes in solving the problems of the world, would be a significant starting point of the century.

 

The trend of globalization in this field has no exception. However, the unequal situation in technology, level of education, economic and political development of the developing countries would be an obstacle to the projected goals. Therefore, the post-industrial countries should understand that reality and should conscientiously assist the developing countries in manpower, finances, and technology. In this century we will no longer see what would happen in the past era of colonialism, exploitation of natural resources and labor by the rich nations over the poor countries.

 

The case of Vietnam

 

Since later years of the 1980's when the new policy of "Open Door" was initiated and followed by the "New Change" to free market, Vietnam has been entering a new cycle of economic growth. Saigon and its vicinity, where manufacturing industries flourished, accounted for 40% of the gross national product.

 

However, this hasty development has resulted in some negative effects such as:

 

Many services have been developed too rapidly without careful considerations like entertainment centers, hotels, golf courts aiming at serving the rich and the foreigners.

 

The creation of the new class of capitalists has given rise to destructive conflicts between political and economic powers that resulted in the decline of the Vietnamese people's benefits.

Who is responsible for such situations?

 

Of course, the Vietnamese Communist Party.

 

Mai Thanh Truyet, Ph.D.

Vietnamese Science & Technology Society, President

USA

Email: EnviroVN@gmail.com

 

 

 


________________________________________

Mai Thanh Truyết

https://maithanhtruyet1.blogspot.com/

https://www.facebook.com/envirovn


"
We carry our homes within us
;

which enables us to FLY"



//////////////////////////////////////////////////