TOÀN CẦU HÓA MÔI SINH

Kể từ khi đúc kết bản Thông Cáo Chung cho hội nghị Thượng Đỉnh về môi sinh tại Rio de Janeiro năm 1992, đại diện của 170 quốc gia trên toàn thế giới đã nhóm họp một lần nữa ở New York vào tháng 6/1997 để lượng định kết quả sau khi ký kết nhiều điều luật áp dụng cho toàn cầu. Tiếp theo, hàng năm các quốc gia trên thế giới cũng đều tổ chức thêm nhiều hội nghị thảo luận về các chuyên đề còn vướng mắc.

Các ký kết sau đây đã được khơi mào từ năm 1992 và đang được tiếp tục bàn thảo và chi tiết hóa:

• Ký kết về Đa dạng sinh học đã nêu lên tích chất bảo vệ môi trường, giám sát/chia sẻ hổ tương các vấn đề môi sinh giữa các quốc gia.

• Luật về Biển để điều hòa các mặt kinh tế trên mặt biển cũng như định ranh hải phận và bảo vệ nguồn cá biển của từng quốc gia một.

• Luật Đánh cá ngoài biển khơi năm 1995 áp dụng cho toàn thế giới.

• Ký kết giữa Âu châu và Hoa kỳ về việc hạn chế lượng khí thải hồi vào bầu khí quyển để bảo vệ lớp ozone (1996).

• Luật cấm chuyễn vận các chất phế thải kỹ nghệ kễ cả phế thải nguyên tử qua các nước kém mở mang.

Sau gần tám năm ròng rã hoạt động phối hợp từ sau hội nghị Thượng đỉnh, các kết quả ghi nhận thể hiện nhiều mặt tích cực lẫn tiêu cực.

Nhìn chung về các mặt tiêu cực thì sự gia tăng mức độ ô nhiễm không khí và sự giãm thiểu nguồn nước sinh hoạt là mối lo ngại hàng đầu cho thế giới mặc dù có quá nhiều luật lệ ràng buộc các quốc gia với nhau về hai vấn đề trên. Và kết quả dây chuyền là lượng ngủ cốc sản xuất cũng như lượng protein động vật sẽ không tăng trưởng kịp với đà gia tăng dân số trên thế giới. Nguy cơ nạn đói có thể xảy ra trầm trọng hơn trong tương lai ở những nước có đông dân cư và kém mở mang.

Về mặt tích cực, cần phải kễ đến trước tiên là mức gia tăng dân số giãm dần dù còn có nhiều nơi không hạn chế được mức sinh sản như ý muốn. Với sự tiếp tay của các quốc gia giàu, cộng thêm trình độ dân trí ở các quốc gia đang phát triển tăng dần, mức gia tăng dân số đã giãm so với năm 1992, mặc dù dân chúng có tuổi thọ tăng lên và sống mạnh khỏe hơn. Về môi sinh có nhiều chỉ dấu cho thấy cố gắng trong việc giải quyết và xử lý môi trường ở nhiều quốc gia nhất là ở những quốc gia đang phát triển để từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế.

Các quốc gia kỹ nghệ đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện môi trường. Như việc Đại học Toronto (Canada) đang đi gần đến kết luận trong việc nghiên cứu cải tạo đất ở những vùng đã bị lão hóa vì thâm canh và sử dụng quá nhiều hóa chất như phân bón và thuốc trừ sâu bọ. Đại học MIT (Hoa kỳ) đã nghiên cứu một số cây trồng qua kỹ thuận gene để có thể chống mặn và hấp thụ muối ở những vùng bị nước mặn xâm lấn. Và cũng chính kỹ thuật gene nầy sẽ giúp cho các thế hệ thực vật trong tương lai sẽ có sức đề kháng cao, tăng năng suất... do đó sẽ tiết giãm diện tích trồng trọt cùng phân bón và nước tưới tiêu.

Trước những nguy cơ của việc sử dụng nhiều hóa chất như phân bón, thuốc sát trùng, diệt cỏ dại v.v..., một số quốc gia đã ý thức và cổ súy nông dân áp dụng phương pháp trồng trọt không dùng hóa chất, phương pháp hữu cơ_organic farming method. Kết quả trước mắt là phương pháp nầy làm giãm ô nhiễm mạch nước ngầm, và nông dân tránh được việc tiếp xúc trực tiếp với các loại hóa chất độc hại. Âu châu đã đi đầu cho chương trình trên bằng cách tăng diện tích trồng trọt theo phương pháp trên. Ở Ý và Áo, diện tích đất áp dụng đã tăng hơn bốn triệu mẫu tây, chiếm hơn 10% tổng số diện tích trồng trọt trong năm 1999.

Vấn đề tồn tại: Tuy nhiên vẫn còn quá nhiều vấn đề tồn tại ảnh hưởng trực tiếp lên hành tinh của chúng ta đang sống. Sự bất cân đối về mức độ giàu/nghèo giữa các quốc gia. Sức mạnh và quyền lực chính trị/kinh tế. Đó là hai yếu tố căn bản ảnh hưởng đến môi trường sống và là nguồn cội bất ổn cho tương lai của các quốc gia. Đây cũng là những khuyến cáo do Worldwatch Institute đúc kết qua cuốn bạch thư Chỉ dấu sinh tồn 2000_ Vital signs 2000.

Nạn nghèo đói

Mặc dù có sự kêu gọi của thế giới qua hội nghị Copenhagen (Đan Mạch) vào năm 1995 với chủ đề "quốc gia giàu phải viện trợ và xóa nghèo cho quốc gia nghèo" nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia trên càng tăng . Bắc bán cầu và Nam bán cầu có hai đời sống kinh tế trái ngược. Trong năm 1999, kinh tế toàn thế giới khơi động trên 41 ức Mỹ kim (1 ức= 1012 ) cho sinh hoạt và dịch vụ...nhưng 45% số lượng trên đã đi vào 12% dân số của các quốc gia hậu kỹ nghệ. Hiện tại vẫn còn trên 1.5 tỷ người sống trong tình trạng nghèo tuyệt đối ( lợi tức dưới US$1/ngày). Và tình trạng nghèo đói nầy tiếp tục tăng thêm mặc dù có nhiều kết ước của các quốc gia giàu về việc chia sẻ và giảm thiểu phân nửa số lượng người nghèo trên thế giới vào năm 2015. Theo nhận định của thủ tướng Đan Mạch trong kỳ họp của Liên Hiệp Quốc về Hội nghị giảm nghèo tại Geneve (Thụy Sỉ) vào tháng 6/2000 thì các nước giàu cần phải cố gắng thêm để đạt được tiêu chuẩn trên.

Cũng trong năm 1999, các nước đang mở mang hiện còn nơ cc quốc gia phát triển 2.5 ức Mỹ kim. Tình trạng trên ảnh hưởng rất lớn đến các nước nghèo vì đôi khi mức nợ cần phải thanh toán chiếm hơn 39% ngân sách quốc gia. Chính tình trạng nầy đã khiến cho các nước nghèo không thể giải quyết được các vấn nạn thay đổi môi trường (thiên tai) như ngập lụt và đất chùi như đã xảy ra tại Venezuela vào tháng 12/1999. Thảm trạng nầy khiến cho trên 30.000 người thiệt mạng.

Các quốc gia phát triển đã hứa sẽ giúp đở tài chánh cho các quốc gia kém mở mang trong kỳ đại hội thượng đỉnh năm 1992, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra đề nghị cụ thể là nên trích 0,7% tổng sản lượng quốc gia cho viện trợ. Nhưng hiện tại, mức viện trợ cho các nước nghèo chỉ đạt được 0,3% cho năm 1992 và 0,27%, năm 1995. Và chỉ tiêu mới nhất là sẽ đạt được tiêu chuẩn 0,7% cho năm 2002. (Lợi tức đầu người ở Việt Nam cho năm 1992 là US$230/năm đã tăng lên US$330/năm trong năm 1999. Cũng trong năm nầy, lợi tức của người dân Lào là US$377/năm).

Cung và Cầu


Vẫn còn 20% dân chúng trên thế giới tiêu thụ 80% nguồn tài nguyên thiên nhiên! Chính thiểu số người dân sống trong các quốc gia giàu nầy làm cho môi trường càng thoái hóa nhanh hơn như nhận định của Molly Sheehan trong bạch thư chỉ dấu sinh tồn 2000 trên. Chúng ta hình dung số lượng giấy sử dụng ở các quốc gia phát triển cao hơn chín lần mức tiêu thụ ở các nước nghèo. Số lượng xe sử dụng ở Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bổn cao gấp trăm lần ở Ấn Độ và Trung Quốc theo ước tính của UN Population Fund.

Mặc dù chính quyền của các quốc gia giàu đã đưa ra nhiều chính sách để cố gắng hạn chế sử dụng bừa bãi tài nguyên thiên nhiên, cải tiến quy trình sản xuất "sạch", tái sử dụng các phế phẩm để giãm thiểu phế thải độc hại...tuy nhiên người dân ở những nước nầy vẫn còn nhiều thói quen xấu trong sinh hoạt hàng ngày như phí phạm nguồn nước sinh hoạt và năng lượng.

Vấn đề Dân số

Vì nhu cầu cung cấp lương thực cần tăng theo tỷ lệ thuận với đà gia tăng dân số, các quốc gia đang mở mang cố gắng luân canh và thâm canh để gia tăng ngủ cốc. Việc làm nầy khiến cho đất đai bị cằn cổi sớm hơn dự liệu trong vài vùng trên thế giới do đó mức độ phá rừng tăng nhanh hơn... Đối với các quốc gia đã phát triển, mức gia tăng dân số tương đối ổn định, và mức tăng trưởng lương thực hoàn toàn phù hợp và có tính khả thi cao so với điều kiện xã hội dự kiến cho một vài thế hệ tiếp theo. Ngược lại, ở các nước đang mở mang, việc tăng trưởng dân số quá nhanh và khó kiểm soát vẫn là vấn nạn chính cho các chính quyền nói trên. Từ tình trạng thiếu phương tiện, nguồn vốn cho đến dân trí người dân còn thấp kém.... quả thật khó cho các nước đang mở mang có thể hoạch định được một chương trình hay kế hoạch hữu hiệu về kiểm soát sinh sản.

Năm 1994 tại Cairo (Ai Cập) vấn đề hạn chế sinh sản được đặt ra nhưng vẫn còn tùy thuộc vào quyết định riêng của từng quốc gia. Cần nên nói thêm là yếu tố tôn giáo cũng là một cản ngại đáng kễ trong vấn đề nầy. Năm 1959, nhà dự phóng Aldous Huxley trong bài thuyết giảng "Tình trạng nhân loại_The Human Situation" tại Đại học Santa Barbara ước tính có 2,8 nhân khẩu hiện diện trên quả đất. Con số nầy tăng lên 3,7 tỷ được ghi nhận trong Ngày Địa cầu_Earth Day đầu tiên năm 1970 . Ba chục năm sau dân số tăng lên 6 tỷ; và dự đoán cho năm 2050 là 9 tỷ. Trong tương lai, gần 98% của mức gia tăng dân số xảy ra ở những quốc gia đang phát triển như vùng Sahara (Phi Châu), dân số sẽ gấp đôi cho mỗi chu kỳ 23 năm!

Theo thống kê tính đến tháng tư năm 1999, dân số Việt Nam có 76.327.921 người, tăng 11,9 triệu so với năm 1989. Tỷ lệ tăng dân số trung bình của thời kỳ 1989 – 1999 là 17%, giãm 5% so với thời kỳ 1979 – 1989. Năm 1998 tỷ suất sinh là 2,5 con cho một phụ nữ trong hạn tuổi sinh đẻ, giãm hơn 1/3 so với cách đó 10 năm. Tuy nhiên, mức độ gia tăng vẫn còn cách xa so với chỉ tiêu 2,0 con cho một phụ nữ. Dự kiến tăng trưởng dân số của một vài quốc gia trên thế giới cho năm 2035 là: Hoa kỳ 275 triệu năm 1999 tăng lên 408 triệu, Trung quốc 1,3 tỷ lên 1,6; và Ấn độ từ 1,0 tỷ lên 1,6 tỷ.

Rừng, Đất đai và Thực phẩm

Trong khi các nước hậu kỹ nghệ đang đẩy mạnh việc trồng rừng, tái tạo rừng và hạn chế phá rừng cho kỹ nghệ giấy và xây cất... thì sự thất thoát rừng ở các quốc gia kém mở mang đang trên đà báo động. Vì nhu cầu phát triển và tăng diện tích đất trồng trọt, nạn phá rừng bừa bãi làm cho rừng bị hủy diệt với tốc độ nhanh hơn việc tái tạo rừng.. Trung bình hàng năm trên thế giới có khoảng 13,7 triệu hecta rừng biến mất. Riêng tại Việt Nam, năm 1994 tổng diện tích rừng chiếm 44% theo cơ quan Lương Nông quốc tế , nhưng năm 1980 còn khoảng 24% và tính đến năm 1998 chỉ còn 17% trên tổng diện tích đất đai! Với tốc độ phá rừng kễ trên, thì trong tương lai chúng ta khó có thể lường được hậu quả của những thiên tai sẽ xảy ra cho Việt Nam.

Về lương thực, mặc dù mức sản xuất đang trên đà gia tăng nhưng vẫn còn trên 800 triệu nhân khẩu trên thế giơiù đang chiến đấu với nạn đói và thiếu dinh dưởng. Việc sử dụng thuốc trừ sâu rầy bừa bãi, phương pháp trồng trọt còn quá thô sơ, kỷ năng hiểu biết và ứng dụng phân bón còn yếu kém... Đó là những nguyên nhân chính làm cho hơn 300 triệu hecta đất dùng cho nông nghiệp bị thoái hóa hay không thể khai khẩn được. Thêm nữa, khoảng 1,2 tỷ hecta đất đang báo hiệu hiện tượng lão hóa và cho năng suất rất kém. Sự sa mạc hóa của đất ngày càng ảnh hưởng mạnh lên tổng diện tích đất trồng trọt trên thế giới. Tình trạng nầy chiếm hơn 1/4 đất nông nghiệp tương đương với 3,6 tỷ hecta. Một đại hội chống sa mạc hóa diễn ra trong năm 1996 đã cảnh báo về vấn đề nầy và khuyến cáo các quốc gia giàu nên viện trợ các nguồn thực phẩm thặng dư đến các nước nghèo, song song với việc cung cấp các kỷ năng tiên tiến để giúp các nước nầy tăng năng suất sản xuất thực phẩm.

Nguồn nước sinh hoạt

Hiện tại vẫn còn 1/3 dân số trên thế giới sống trong tình trạng thiếu nguồn nước để sinh hoạt hàng ngày. Nếu không có biện pháp thích ứng trong việc phân phối và tái tạo nguồn nước thì theo ước tính đến năm 2025 sẽ có 2/3 dân số không đủ nước để sử dụng. Trên thế giới, lượng nước ngầm bị thất thoát hàng năm là 160 tỷ thước khối, tương đương với lượng nước cần thiết để sản xuất 1/10 lượng lương thực nông phẩm cho nhân loại. Do đó việc xử lý và tái sử dụng nước thải sinh hoạt của dân chúng là ưu tiên hàng đầu. Thêm nửa, nếu lượng nước thải hồi không được xử lý, số nước nầy sẽ làm ô nhiễm mạch nước ngầm khiến cho tình trạng khan hiếm nước sạch càng tăng thêm.

Dự phóng về mức cung/cầu nước cho 118 quốc gia trên thế giới cho năm 2025 đã được Viện Quốc tế Quản trị nước_ International Water Management Institute (Washington) nghiên cứu, phân loại, và đề xướng một số cảnh báo sau đây: cuộc chiến tranh trong tương lai nếu có sẽ khơi nguồn từ việc tranh giành nguồn nước sinh hoạt. Chính Gaddafi (Libya) đã từng tuyên bố ngày 3/12/1999 rằng Ai Cập có thể gây chiến tranh ở vùng Trung Đông vì...nước!

Căn cứ theo phân loại của viện nghiên cứu trên, có bốn loại quốc gia được phân chia tùy theo tình trạng khan hiếm nước sau đây:

• 17 quốc gia không đủ nước cho nhu cầu so với nguồn nước đã có năm 1990; đó là các quốc gia vùng Trung Đông, Nam Phi, Tây và Nam Ấn Độ, Tây và Tây Bắc Trung quốc.

• 24 quốc gia cần phải tăng nguồn nước lên 100% để đối phó vớ sự gia tăng dân số như các quốc gia chung quanh sa mạc Sahara Phi châu.

• 32 quốc gia cần phải luân canh và dùng kỹ thuật cao để giãm lượng nước sử dụng cho nhu cầu nông nghiệp như Bắc Phi Châu, Nam Dương, Miến Điện, Nam Mỹ, Mể Tây Cơ, và Trung quốc.

• Sau cùng số quốc gia còn lại như Bắc Mỹ, Tâu Âu,..Việt Nam mặc dù còn đủ lượng nước để sinh hoạt và tưới tiêu nhưng cũng cần phải đẩy mạnh việc xử lý để tái tạo nguồn nước...

Trong trường hợp Việt Nam, hiện tại có 54% dân chúng sống trong các đô thị lớn được hưởng nguồn nước sạch và ở vùng nông thôn, nước sạch được phân phối cho nông dân là 34%. Nếu tính tổng số dân Việt Nam là 78 triệu và có 72% dân chúng sống ở vùng nông thôn thì có khoảng 46 triệu dân chúng vẫn dùng các nguồn nước không hợp vệ sinh vào các nhu cầu hàng ngày.

Ô nhiễm Đại dương

Đại dương bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó ô nhiễm từ các sinh hoạt trên đất liền chiếm hơn 80%. Do đó nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân sống dọc theo các bờ biển trên thế giới, chiếm 66% dân số toàn cầu. Thêm nữa, lượng hải sản bị đánh bắt bừa bãi vẫn tồn tại (chiếm khoảng 60%) nhất là ở những vùng đang xảy ra tranh chấp hải phận giữa các quốc gia.

Năm 1995, tại hội nghị Basel (Thụy Sỉ) gần 100 quốc gia đã đồng ý và chấp thuận bộ luật kiểm soát và xử lý phế thải độc hại cùng việc quản lý các bờ biển nhất là những vùng biển san hô được đặc biệt lưu ý đến vì đây là nguồn tài nguyên lương thực biển dồi dào nhất. Tuy nhiên cho đến nay, các khuyến cáo trên không được đa số các quốc gia thi hành. Các nước đang phát triển vẫn tiếp tục thải hồi phế thải kỹ nghệ vào thẳng sông ngòi và đại dương, sử dụng chất nổ và cyanide để săn bắt cá. Trong lúc đó, một số quốc gia đã phát triển trong đó có Hoa Kỳ cũng dùng cyanide để đánh bắt cá kiểng ở những vùng biển san hô! Tệ trạng nầy làm hủy hoại vùng biển san hô như ở vịnh Hạ Long (Việt Nam) theo kết quả nghiên cứu của Hải học viện Nha Trang gần đây. Một khi vùng san hô bị hủy diệt, cá tôm không có nơi trú ẩn và sinh sản cũng như không có đủ lượng phiêu sinh vật, nguồn lương thực chính của tôm cá, do đó sẽ một số loài sẽ bị tiệt chủng hay di chuyễn qua những vùng khác. Tình trạng khan hiếm nguồn protein động vật sẽ càng thêm trầm trọng hơn.

Thời tiết

Hiện trạng thán khí và các hợp chất hữu cơ có chlor ngày càng tăng dần trong không khí có nguy cơ phá vở lớp ozone trên bầu khí quyển và làm nhiệt độ trung bình trong không khí tăng lên. Mặc dù đã đồng ý ký kết trên căn bản làm giãm thiểu luồng khí thải hồi vào bầu khí quyển từ năm 1992 tại Rio de Janeiro, cộng thêm khuyến cáo Kyoto năm 1997, hầu hết các quốc gia ký kết đều không tuân thủ lời kết ước. Dự tính cho đến năm 2010, việc cam kết để giãm thiểu lượng khí thải hồi trên toàn thế giới tương đương với mức thải hồi trong năm 1990 là 27 tỷ tấn/năm vẫn còn quá xa vời. Hoa kỳ cho đến bây giờ vẫn chưa hề đặt bút ký kết thỏa hiệp quốc tế nầy. Hàng năm Hoa kỳ thải hồi 2 tỷ tấn thán khí và kễ từ năm 1997, số lượng trên tăng dần theo tỷ lệ 0,5%/năm. Ngược lại Anh quốc đã có nhiều cố gắng và thành công trong việc kiểm soát và tiết giãm lượng khí thải hồi bằng cách hạn chế bớt một số công nghệ sản xuất cũ để thay thế bằng các công nghệ "sạch". Kết quả là bầu khí quyển ở Anh quốc có thể giãm hơn 21% trong năm 2010 so với định mức năm 1990.

Theo nghiên cứu gần đây nhất (2000), thì trước năm 1995 cây cỏ và đất hấp thụ khoảng 50% tổng số thán khí thải hồi trên thế giới, trong lúc đó biển hấp thụ khoảng 40%. Nhưng từ năm 1999 trở đi, đất trồng trọt bị chai cằn vì bị khai thác quá độ, cho nên mức hấp thụ của thực vật giãm đi so với biển. Từ đó biển trở thành đối tượng chính cho các nghiên cứu ứng dụng vào việc xử lý không khí ô nhiễm. (Xem bài viết trên ĐiTới số 33- 34 của cùng tác giả)

Nhiều nhà nghiên cứu đã lưu tâm và dự phóng về hệ quả của hiện tượng hâm nóng toàn cầu cho thế kỷ 21. Từ năm 1990, Hoa kỳ đã có dự luật nghiên cứu về sự thay đổi thời tiết_Global Change Research Act trong đó ghi rõ mục tiêu nghiên cứu và hệ quả ảnh hưởng lên nguồn nước, rừng, đời sống sinh vật, sức khỏe của người dân, biển và đời sống biển. Kết quả sơ khởi trong năm 1999 ở Hoa kỳ là: - Nhiều vùng bờ biển và thềm lục địa bị ảnh hưởng nặng; - Sức khỏe người dân giãm dần do việc suy thoái môi trường; - Tuy nhiên, mức kinh tế, lương thực sản xuất, nạn phá rừng, và sự tái tạo rừng tương đối ổn định.

Trung tâm dự phóng và nghiên cứu thời tiết Hadley (Anh Quốc) tiên đoán thế giới trong tương lai là sẽ có mưa nhiều ở một số nơi và hạn hán ở nhiều vùng khác. Thiên tai sẽ xảy ra thường xuyên hơn và khó được dự báo trước...do đó hậu quả sẽ tàn khốc hơn. Trong khi đó, Viện nghiên cứu Thái bình dương về Phát triển, Môi trường, và An toàn_Pacific Institute for Studies in Development, Environment, & Security tại California dự đoán rằng thế giới sẽ nóng hơn, mưa nhiều hơn, ít tuyết cho mùa đông, nạn hạn hán và ngập lụt xảy ra thường xuyên hơn cho nhiều vùng và không có chu kỳ nhất định. Các tảng băng ở Bắc cực và Nam cực tan dần và làm tăng lượng nước trên đại dương do đó làm thu hẹp lại diện tích đất sinh hoạt cho loài người.

Năng lượng

Mức nhiệt năng lượng do than đá, dầu hỏa, khí đốt... được sử dụng tương đối ổn định ở các quốc gia có kỹ nghệ tân tiến. Tuy nhiên, việc ứng dụng rộng rãi các nguồn năng lượng khác như thủy điện và nguyên tử năng trong vòng 50 năm trở lại đây đã gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng cho bầu khí quyển và môi trường sống của loài người. Hiện tại các quốc gia đã phát triển đang lần lần tháo gở các đập nước đã xây dựng cho việc sản xuất thủy điện để hy vọng tái lập lại hệ sinh thái đã bị hủy diệt. Đối lại, các quốc gia đang phát triển vì nhu cầu năng lượng đang cố gắng xây dựng các đập thủy điện qua tài trợ hay vay mượn của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Á châu. Việc làm thiếu cân nhắc, không điều nghiên kỹ lưỡng nầy sẽ tác hại mạnh mẻ đến các thế hệ tương lai.

Sự thôi thúc và hổ trợ trong việc xây dựng các đập thủy điện ở các nước đang phát triển nhất là các nước vùng lưu vực sông Cửu Long của các cơ quan quốc tế nói trên không phải là một hảo ý để giúp đở các quốc gia trong lưu vực có điều kiện để phát triển. Đó chính thực là do chủ tâm muốn giải quyết các tồn động kỹ thuật và nhân sự chuyên môn núp bóng dưới danh nghĩa nhân đạo.

Lượng năng lượng cần thiết ước tính cho năm 2050 sẽ tăng gấp đôi so với hiện tại. Tuy nhiên sự phân bố năng lượng không đồng bộ. Trên hai tỷ dân trên thế giới hầu hết ở các nước kém mở mang vẫn không được hưởng những tiện nghi do điện mang đến. Và cũng cần nói thêm rằng, một số quốc gia đã cố gắng nghiên cứu sản xuất ra nguồn năng lượng "sạch" để giãm thiểu ô nhiễm. Đó là điện năng do ánh sáng mặt trời và gió. Hai công nghệ nầy tạo ra năng lượng và không làm ô nhiễm môi trường. Đáng kễ nhất là năng lượng đến từ gió. Đây là nguồn năng lượng có độ tăng trưởng nhanh nhất trong năm 1999 (tăng 39%) và năng lượng mặt trời (tăng 30%). Cần phải kễ thêm năng lượng không tạo ra ô nhiễm khác là các bóng đèn dạ quang có fluor (compact fluorescent lamp_CFL). Trong tương lai ba nguồn năng lượng nầy sẽ là những tác động chính trong việc làm giãm thiểu/ngăn chận hiện tượng hâm nóng toàn cầu.

Phế thải kỹ nghệ


Các chất phế thải kỹ nghệ như: hóa chất hữu cơ, hợp chất chứa kim loại nặng, phế thải nguyên tử, y khoa v.v...vẫn là một nguy cơ lớ cho nhân loại ảnh hưởng sâu đậm đến sức khỏe con người và làm đảo lộ hệ thống môi sinh toàn cầu. Theo ước tính năm 1999, hiện vẫn còn trên ba triệu tấn phế thải độc hại di chuyển từ quốc gia nầy qua quốc gia khác mặc dù có nhiều hội nghị quốc tế ngăn cấm việc làm nầy ( Hội nghị Basel năm 1995 và 2000). Vài thí dụ điển hình là: 1- Năm 1999, một công ty Đài loan chuyển tải hàng trăm tấn phế thải chứa thủy ngân (Hg) qua Cambodia và làm thiệt hại trên 20 nhân mạng; 2- Gần đây nhất (4/2000), một công ty Nhật Bản mang 110 tấn phế thải chứa PCBs (có mầm độc hại tương đương với dioxin trong chất độc màu da cam) sang Vancover (Canada)...roià Seattle (Hoa Kỳ).

Riêng tại Việt Nam, các phế thải kỹ nghệ chưa được quan tâm đúng mức đặc biệt phế thải từ các bệnh viện. Lượng thải rắn từ các bệnh viện chứa khoảng 250.000 tấn/năm trong đó chất thải nguy hại chứa vi trùng chiếm từ 20 – 26% theo báo cáo của Nguyễn Khắc Kinh – Phó cục trưởng cục môi trường trong hội thảo "Xử lý rác phế thải y tế" tại Sàigòn năm 2000. Phần lớn các phế thải y tế tại tỉnh thành phố được tiến hành cùng với chất thải sinh hoạt và chở thẳng tới bãi rác lộ thiên chung! Cũng theo ước tính tại Sàigòn, sở rác thành phố chỉ thu gom được 20% chất thải trên tổng lượng rác ở các bịnh viện. Phần còn lại thì do các bịnh viện xử lý hoặc chôn hay đốt...(?)

Đa dạng Sinh học

Những vấn đề còn tồn tại trên thế giới nêu ở phần trên đã đem lại ảnh hưởng trực tiếp lên mặt địa cầu đặc biệt là mức độ tiệt chủng của một số sinh vật trên trái đất đang trên đà gia tăng nhanh chóng. Dân số tăng trưởng, kỹ nghệ phát triển, rừng bị hủy diệt....làm cho vùng đất sinh sống của sinh vật bị thu hẹp lại. Theo ước tính sẽ có vào khoảng 50.000 chủng giống thực vật và động vật biến mất trong vòng vài thập niên tới đây. Cho đến nay, các dự luật về an toàn sinh học_bio-safety vẫn chưa được sự đồng thuận giữa các quốc gia trên thế giới.

Tất cả những vấn nạn trên thế giới đã trình bày trên đây đang dần dần được tháo gở hay cải thiện. Tuy nhiên đa số vẫn còn trong tình trạng hiện tại hoặc tệ hại hơn nữa đang xuống cấp và làm cho thế giới mất quân bình trong nhiều lãnh vực. Khoảng cách giàu nghèo tăng thêm giữa các quốc gia cũng như giữa các từng lớp trong cùng một quốc gia. Mức phúc lợi phân phối bất cân đối trong xã hội.

Các vấn đề tuy được thảo luận kỹ lưỡng nhưng sau cùng hầu như trong mọi vấn nạn, phương cách giải quyết cũng như việc xử lý vi phạm vẫn còn lơ lững và không có tính cách quyết liệt. Tình trạng "cái lý của kẽ mạnh" ( kinh tế-quân sự) vẫn xảy ra khắp nơi trên quả địa cầu. Trong mỗi thương thảo hay nghị hội, các quốc gia tiên tiến trên thế giới dường như không thật lòng và có mục đích che đậy một số ý đồ chính trị hơn là giải quyết vấn đề hay giúp đở các quốc gia kém mở mang đứng lên. Và các nước sau nầy vẫn còn giữ thái độ thụ động trước áp lực hay hướng dẫn của các thế lực quốc tế cả về chính trị lẫn kinh tế. Sau cùng, việc giải quyết ô nhiễm môi trường hay bảo vệ môi sinh của những quốc gia trên đây đôi khi chỉ là những lá bài cho các tính toán chính trị đen tối. Vấn đề chính yếu là lãnh đạo các quốc gia đang phát triển phải sáng suốt và biết sắp xếp thứ tự ưu tiên những gì cần phải xây dựng và phát triển phù hợp với điều kiện của từng quốc gia một.

Thay lời kết

Đứng trước xu hướng toàn cầu hóa trong mọi lãnh vực của con người, lằn ranh quốc gia, chủng tộc,...lần lần phai nhạt dần. Và cùng với sự tiếp tay của các nước hậu kỹ nghệ, người dân của các quốc gia đang phát triển ngày càng được tiếp thu và hấp thụ thêm nhiều thành quả của tiến bộ khoa học để cải thiện xã hội từng bước một. Tuy nhiên cũng cần nhận rõ thêm nhiều mặt tích cực và tiêu cực của một số quốc gia Tây phương trong cung cách hành xử trước xu hướng trên để có cái nhìn khái quát về các phương cách tiếp cận môi sinh cho toàn cầu. Xin đan cử ra đây hai trường hợp cần cho chúng ta suy gẫm. Đó là trường hợp nước Đức và Pháp.

Pháp quốc và người Pháp luôn luôn tự hào là chiếc nôi của cuộc cách mạng dân chủ trên thế giới qua cuộc nổi dậy phá ngục Bastille năm 1789, đã kiêu hảnh vì có một nền văn hóa ưu việt và một ngôn ngữ văn minh và tiến bộ nhất trên thế giới. Nước Pháp cũng là một trong những quốc gia đầu tiên phát triển công-kỹ-nghệ và có nền kinh tế thịnh vượng hàng đầu... Nhưng đứng trước nhu cầu toàn cầu hóa, người dân Pháp đã thể hiện một số mặt tiêu cực có thể làm chậm lại tiến trình đi đến gần nhau của các dân tộc trên thế giới để cùng giải quyết những vấn đề chung cho nhân loại. Thí dụ điển hình sau đây kiên quan đến việc sử dụng ngôn ngữ trong giao dịch quốc tế đã nói lên tính "cô lập" tiêu cực của người Pháp.

Kễ từ năm 1994, chính phủ Pháp đã dự phóng tính toàn cầu hóa của nhân loại nên có khuyến cáo về việc sử dụng tiếng Anh trong giáo dục, dịch vụ công cộng và trao đổi quốc tế. Claude Allegre, Bộ trưởng giáo dục Pháp thời bấy giờ đã yêu cầu các nhà khoa học, nghiên cứu trong khi viết khảo luận hay báo cáo nên trình bày bằng Anh ngữ. Nhưng cho đến nay (2000), các tài liệu nghiên cứu từ Pháp vẫn hoàn toàn soạn thảo bằng Pháp ngữ và đây là một cản ngại lớn cho nước Pháp và thế giới trong việc trao đổi các tiến bộ của khoa học. Hiện tại chỉ còn 130 triệu người nói tiếng Pháp so với hơn 6 tỷ người hiện diện trên thế giới.

Tính cực đoan trên còn thể hiện qua việc trao đổi trong lãnh vực hàng không. Các phi công Pháp vẫn tiếp tục cưởng lại lệnh của chính phủ đề ra trong luật An toàn không lưu vào tháng 2/2000 về việc sử dụng Anh ngữ khi đi và đến phi trường De Gaulle (Paris). Hai sự kiện trên thể hiện rõ tinh thần tự mãn và niềm tự ái dân tộc cực đoan của người Pháp. Và kết quả là nước Pháp hiện tại không còn ảnh hưởng mạnh về chính trị-kinh tế-văn hóa đối với các quốc gia đang phát triển như ngày xưa nữa. Vị trí của nước Pháp đã tụt xuống hàng thứ yếu cùng với các trì trệ về kinh tế-xã hội mà chính phủ Pháp đang phải đương đầu. Ảnh hưởng của Pháp và văn hóa cùng ngôn ngữ Pháp rất quan trọng đối với Việt Nam. Vào giữa thế kỹ 20 có thể nói rằng hầu hết trí thức từ Bắc chí Nam đều sử dụng Pháp ngữ một cách rành rọt. Cho đến ngày nay, trong kỳ thi tốt nghiệp trung học trên khắp nước có 528.380 học sinh, trong đó 471.585 thí sinh chọn môn Anh văn là ngoại ngữ chính, trong khi chỉ có 18.006 chọn Pháp văn và 5.801 chọn Nga văn.

Ngay trong lãnh vực điện toán cũng vì tính cực đoan trên mà người Pháp đã để lộ ra rõ những yếu điểm trong việc chuyển ngữ các từ thông dụng quốc tế từ Anh ngữ mà đôi khi không hiểu ý nghĩa thực sự của các từ đó. Đại để như: CD rom ra cédérom, start-up ra jeunes pousses (?),và lố bịch hơn nữa là stock option ra option sur titre (?!).

Trở về nước Đức, từ khi bức tường Bá Linh sụp đổ người dân và chính phủ Tây Đức trong gần mười năm phải cưu mang hai vấn nạn chính: 1- Một Đông Đức nghèo nàn và hạ tầng cơ sở cùng hệ thống công-kỹ-nghệ không còn phù hợp với cung cách phát triển mới; 2- Dân sinh và dân trí người Đông Đức ở dưới mức trung bình quá xa so với người dân Tây Đức. Thêm nữa, sau gần 50 năm dưới chế độ cộng sản, người dân Đông Đức không còn thấy định hướng mới nào nữa cho xã hội đứng trước sự phát triển cực kỳ tân tiến của đồng hương từ phía bên kia bức màn sắt.

Đứng trước tình trạng đó, thay vì hành xử với cung cách của kẽ chiến thắng về kinh tế và chính trị đối với người chiến bại, chính phủ và người dân Tây Đức đã mở rộng vòng tay cứu vớt đồng bào ruột thịt Đông Đức. . Họ đã tân trang, chuyển vận các công nghiệp "sạch" qua Đông Đức cùng với việc hàn gắn vết thương ý thức hệ do một chủ thuyết không tưởng đã tạo ra sự nghèo đói cho phân nửa phần đất nước. Theo ước tính, Tây Đức dự trù chuyển dịch từ 200 đến 300 tỷ Mỹ kim trong vòng 20 năm tới cho công tác trên. Vì vậy, khoảng cách kinh tế-kỹ thuật giữa hai miền đất nước lần lần được thu hẹp lại. Và hai người anh em ruột thịt Đông Đức và Tây Đức lần lần hội nhập vào sinh hoạt của một tổ quốc chung: quốc gia thống nhất Đức Quốc.

Về cung cách hành xử quốc tế, nước Đức thống nhất đã có tầm nhìn toàn cầu hóa bằng cách sáng lập và khai sinh đồng tiền chung cho Âu châu: Euro-dollar. Nước Đức thống nhất không còn đứng về phía cánh hữu cực đoan và chính phủ Đức hiện tại đã chuyển vận theo xu hướng toàn cầu hóa về lập trường chính trị dưới sự lãnh đạo của đảng ôn hòa.

Về đối nội, nước Đức thống nhất đã xem đồng bào chính quốc như một; về đối ngoại, họ đã có cái nhìn vị tha hơn đối với các quốc gia đang phát triển bằng cách mang đến cho các quốc gia nầy nhiều viện trợ không bồi hoàn và xóa nợ... hơn là tận dụng và bốc lột kinh tế-lao động.

Đức quốc trong chiều hướng tiếp cận tương lai như trên đã có một tầm nhìn thật dân tộc, nhân bản và một hướng đi khai phóng phù hợp với nguyên tắc căn bản chân chính cho nhân loại để tiếp tục cuộc hành trình vào thế kỷ 21.

Pháp và Đức là hai quốc gia cùng có một nền văn minh – khoa học tiến bộ lâu đời, cùng chiếm vị trí hàng đầu trên thế giới từ thế kỷ 18. Hai dân tộc trên cũng cùng thể hiện tinh thần dân tộc cực đoan và đã từng làm xáo trộn thế giới dưới thời Napoléon và Hitler. Tuy nhiên Pháp quốc đã đi ngược lại giòng lịch sử trước xu hướng toàn cầu hóa. Việc làm đó đã để lại cho một nước Pháp nhiều trì trệ về phát triển kinh tế-xã hội và trong lãnh vực bảo vệ môi trường. Mặc dầu vẫn còn nằm trong danh sách tám cường quốc trên thế giới, nước Pháp về nhiều phương diện vẫn còn đứng sau các nước có kỹ nghệ tiên tiến như Hoa Kỳ, Anh, Nhật, Úc, Canada, Bắc Âu...nhất là trong lãnh vực xử lý ô nhiễm nguồn nước và phế thải kỹ nghệ.

Ngược lại, chính phủ và người dân Đức đã thể hiện một hướng đi thật nhân bản không những đối với đồng bào ruột thịt mà cho tất cả các dân tộc ở những nước kém mở mang. Việc làm nầy thật dáng cho chúng ta suy gẫm. Tinh thần dân tộc cực đoan của người dân Đức (chủng loại siêu nhân) đã nhường bước cho xu thế xích lại gần nhau trên thế giới.

Nhìn lại Việt Nam, chính quyền hiện tại vẫn tiếp tục mang theo trong đầu ý tưởng siêu việt, đỉnh cao trí tuệ để điều hành đất nước mà không chịu mở rộng tầm nhìn ra thế giới bên ngoài: thế giới của sự hợp tác hài hòa và tôn trọng lẫn nhau. Kết quả đã cho thấy trước mắt là sau hai mươi lăm năm thống nhất đất nước, cho dù hết sức lạc quan, Việt Nam không còn thể hiện một chỉ dấu nào cho thấy xu hướng đúng đắn trong việc phát triển quốc gia nữa. Lãnh đạo không tìm ra hướng đi khã dĩ phù hợp cho sự hồi sinh của Việt Nam. Và người dân, như hàng thần "lơ láo" quanh quẩn lo toan cho cuộc sống hàng ngày (mà vẫn chưa xong!) thì đâu còn trí tuệ nào nữa để nghiền ngẫm đến việc bồi đấp quốc gia...

Với cung cách điều hành quốc gia và hành xử hài hòa theo xu hướng toàn cầu nước Đức đã đưa dân tộc và quốc gia đi theo chiều thuận của bánh xe lịch sử. Nước Pháp vẫn còn dậm chân tại chỗ mang theo tâm khảm mặc khải đứng cao và đứng xa hơn mọi tiến độ đang vận hành trên thế giới. Và gần đây nhất, hai người anh em Bắc và Nam Hàn với hận thù đằng đằng trong hơn nửa thế kỹ đã phải ngồi lại với nhau trong tinh thần tình tự dân tộc để bàn bạc về việc thống nhất Hàn quốc. Cử chỉ và ngôn từ của hai vị lãnh tụ Nam Bắc cho thấy tinh thần hòa giải và hòa hợp thực sự của cả hai phía. Đây cũng là giải pháp thích hợp nhất cho thời đại mới: hai bên cùng chiến thắng _ win-win situation. Và người dân hai miền Nam Bắc Hàn sẽ lấy lại được những gì đã mất mát trong hơn nửa thế kỹ khi nghe hai vị lãnh đạo Nam Bắc Hàn tuyên bố: một ngày mới đang khởi đầu _ a new day is beginning.

Còn Việt Nam của chúng ta?

Nước Việt Nam đã chính thức thống nhất từ năm 1976 về phương diện địa dư...nhưng tình tự dân tộc còn bị ngăn chặn do những rào cản vô hình. Người dân miền Nam vẫn còn mang nhiều uẩn khúc trong cuộc sống hàng ngày từ đó đến nay. Trái lại miền Bắc, đa số đang còn hả hê với cuộc giải phóng miền Nam, mãi mê tiếp thu xã hội mà trong suốt cuộc chiến họ chưa hề hình dung ra như thế nào!

Đứng trước xu hướng toàn cầu hóa trên thế giới, xin đang cử ra đây nhận định của báo Nhân Dân ngày 6/7/2000, về quan điểm của Đảng CS để chống lại sức ép của toàn cầu hóa: "Toàn bộ vần đề là ở chỗ, chúng ta, những người xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thái độ và cần hành động như thế nào trước quá trình toàn cầu hóa? Câu trả lời của chúng ta là: "hội nhập", "mở cửa", dĩ nhiên trên cơ sở những nguyên tắc của chúng ta, vì lợi ích của chúng ta, và trong hội nhập phải chủ động, phải căn cứ thực lực và không thể không cảnh giác, không thể quên đấu tranh, phải nên nhớ hội nhập mà không hòa tan". Tuy nói như thế nhưng cuối cùng bài viết cũng phải thú nhận rằng:" nếu khônng tranh thủ được những cơ hội do toàn cầu hóa mang lại , dù là toàn cầu hóa do chủ nghĩa tư bản chi phối như ngày nay, thì chúng ta không thể xây dựng chủ ngĩa xã hội được". Cơ hội đó mới vừa xảy ra ngày 13/7/2000 sau khi Hoa kỳ và Việt Nam ký kết hiệp ước thương mại xong. Xin hãy chờ xem cuộc tranh thủ của Việt Nam như thế nào, hay chỉ thực hiện "toàn cầu hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa", e rằng tương lai đất nước Việt Nam sẽ không thay đổi bao nhiêu.

Với những cách suy nghĩ nêu trên cộng thêm tâm khảm của một não trạng nghi ngờ, mặc cảm phải tỏ ra chủ động và hiệu chứng chuếch choáng với hơi khói chiến tranh vẫn còn đâu đây... làm sao Việt Nam có thể hội nhâp vào cộng đồng thế giới và tạo được một sự thông cảm toàn diện và đồng thuận ở cả hai mặt chính quyền và người dân như trường hợp Đức và Hàn quốc.

Thống nhất lãnh thổ chưa đủ. Cần phải thực tâm nhận lỗi và chủ động trong việc hàn gắn lại toàn khoiá dân tộc đã rạn nứt vì đa số bị bỏ rơi, bạc đãi và xua đẩy. Chỉ có việc làm sáng suốt nầy mới có thể tạo ra cơ hội cứu vãn Việt Nam trong tiến trình mới của nhân loại.

Đến bao giờ người Việt ở cả hai miền đất nước mới được nghe câu nói "một ngày mới đang khởi đầu..." bằng tiếng Việt mặc dù Việt Nam đã thống nhất trên hai mươi lăm năm rồi...

Mai Thanh Truyết
7/2000

Bài nói chuyện trong buổi Hội thảo Tại Montréal Canada ngày 20/5/2000.
//////////////////////////////////////////////////