Việt Nam Tương Lai: Những Việc Cần Phải Làm - Tập I


___________ 

 

 

 

 

 

Việt Nam Tương Lai

NHỮNG VIỆC CẦN PHẢI LÀM

 


​Lời Mở Đầu:

Phan Văn Song - Đỗ Hải Minh - Mai Thanh Truyết​

Tập I

 

 

 

 

 

 

 

 

HỘI KHOA HỌC & KỸ THUẬT VIỆT NAM

Vietnamese American Science & Technology Society


 

 

 

 

 

 

Copyright March 2014 by

 

Vietnamese American Science & Technology Society

(VAST)

Tel: (713) 363-4456

Email: EnviroVN@gmail.com

 

 

 

 

 

All Rights Reserved

Nhà xuất bản Enviro-Viêt và tác giả giữ bản quyền

ISBN: 978-0-9792842-6-0

 

 

Mục Lục

 

Việt Nam Tương Lai – Tập I

 

-     Lời nói đầu 1 – Người bạn, Người đồng chí - Phan Văn Song     5

 

-     Lời nói đầu 2 – Hướng đại chúng hóa – Đỗ Hải Minh ....  19

 

-     Mở - Mai Thanh Truyết ...................................................  31

 

-     Chương 1 - Những lời chân tình cho quê hương ..........  37

 

-     Chương 2 - Y tế Việt Nam ngày nay.............................. 67

Bác sĩ đánh nhau

Lý do bịnh ung thư

Tử vong do bịnh ung thư                   

Cái chết qua đường miệng

Ác quỷ áo trắng

 

-     Chương 3 - Viện trợ thế giới cho y tế Việt Nam ............  95

Japan suspends aids to Vietnam

Sweden stops development aids to Vietnam

 

-     Chương 4 - Về một nền y tế tương lai .........................  113

Public health in Vietnam

Từ thuốc Bắc thuốc Nam…

 

 

 

 

 

 

-     Chương 5 - Hiện trạng giáo dục Việt Nam ..................  145

Giáo dục

Ngành giáo dục hai miền Nam Bắc

Problems with the education system

Việt Nam đốt sách

Trồng cây: mười năm, trồng người: trăm năm

 

-     Chương 6 -  Nguyên do và thách thức trong giáo dục Việt Nam              175

Suy nghĩ về một chính sách giáo dục

Bài học đầu tiên

Corruption in school

Giáo dục thời VNCH trên Diễn đàn VietNamNet

 

-     Chương 7 –                    Giáo dục bậc tiểu học và trung học         213

Văn hóa và giáo dục

Tinh thần khai phóng

Bộ "học" Việt Nam

 

-     Chương 8 –          Vài suy nghĩ về giáo dục đại học Việt Nam      254

Making international Day

Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn

Khuyến học Nhật Bản

Đại học Cao Đài Tây Ninh

Tiến sĩ Việt Nam đông gấp năm lần Tiến sĩ Nhật

Mời gọi chất xám

 

Kết: Việt Nam Tương Lai Tập I ........................................... 205


 

 

 

 

Người bạn, Người đồng chí

 

Thành ngữ Pháp có câu: "Le moi est haïssable! - nói về cái tôi rất dễ ghét!" Tại sao bắt đầu bài giới thiệu sách của một người bạn bởi thành ngữ nầy? Vì viết, nói về Mai Thanh Truyết, giới thiệu những bài viết của Mai Thanh Truyết, một người bạn, một người đồng chí là nói ra những cái tâm tư tuy là giấc mơ, là tâm huyết của bạn nhưng cũng là của tôi nữa. Nói về Mai Thanh Truyết, nói về sách, nói về bài viết của Mai Thanh Truyết là nói về mình. Nói về những giấc mơ của mình.

Lần đầu bỡ ngỡ:

Hòa đàm Paris năm 1968. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cử sang Paris cố vấn phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa. Mùa Đông 1969, tôi nhận điện thoại từ Paris cho biết là Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cần gặp tôi. Nhớ lại từ 1964 khi Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn và Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy trở về nước tham chánh tôi chưa gặp lại hai chú bác ấy. Tôi vẫn thường gọi Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn là Bác Tư và Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là Chú Ba; chú Ba gọi là tôi phải lên ngay. May quá, năm ấy tuy làm phụ giảng (assistant) ở Viện Nghiên Cứu Quốc tế ở Toulouse, tôi không có giờ dạy học mà chỉ làm quản thủ cho thư viện của Viện thôi, và tôi có thể xin nghỉ một tuần, bù vào ngày nghỉ mùa hè để lên Paris gặp chú Ba.

Chú Ba muốn được giới thiệu những người tin tưởng để đưa Chú Ba đi gặp đồng bào ở Âu châu. Dĩ nhiên, vùng nào đều có thổ công đó. Vùng Toulouse và phụ cận mình lo được chứ những vùng khác phải làm sao tìm cho được thổ công, vừa đáng tin cậy, vấn đề an ninh và an toàn cho giáo sư Huy, phải quen biết nhiều, có uy tín.

Tôi đã biết Mai Thanh Truyết trước rồi, nhưng thật sự, trong dịp ấy, chúng tôi mới quen nhau. Mai Thanh Truyết đang học Tiến sĩ Hóa học ở Besançon, một thành phố nằm ở miền Đông xứ Pháp, một trong những vùng lạnh nhứt nước. Với cặp mắt nhìn thẳng, nụ cười cởi mở, và cái ít gặp nơi người Việt ta, kể cả ở những sinh viên du học thời bấy giờ là "đúng giờ ". Mai Thanh Truyết là "con người đúng giờ", và tôi cũng thế, nên mới ngày đầu làm việc chung, tuy mới quen nhau, hai thằng đã y hẹn, "đúng giờ" và đã nghéo tay dễ dàng với nhau. Truyết "khó tánh" hơn tôi, dễ nổ, dễ "quạu" khi gặp những ai đi trễ giờ, hay làm sai hay  "quá du di không đúng với những giao ước", Truyết rất khoa học, chỉ "hoặc đúng hoặc sai" thôi, tôi dân luật nên thường "tùy trường hợp, tùy điều kiện" hơn.

Tuy dễ nhịn nhục hơn Truyết, nhưng vẫn "bực mình", nhưng nhờ Nam kỳ tánh, nên đành lầm bầm "chưởi thề", cho đỡ đau dạ dầy. Vả lại, "chưởi thề", ít "thất đức" hơn vì "mình chưởi mình nghe", - ba tui dạy tui dzậy - vì khi mình chưởi mắng người ta, mình bị tổn đức, và gây ơn oán giang hồ. Có lẽ vì vậy, ngày nay, tôi rất "dễ chưởi thề". 

Chúng tôi lúc ấy chỉ lo cho công việc chung, không có thời gian làm quen và nói chuyện riêng; nên cả hai chúng tôi đều không ai giới thiệu vợ con với nhau cả. Và sau hai ngày ở Besançon, Truyết lãnh trách nhiệm vừa lái xe đưa Giáo sư đi vừa lo tổ chức những cuộc nói chuyện của Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, tôi hết nhiệm vụ, hết ngày phép nên về lại Toulouse. Và chúng tôi cũng bặt tin nhau, chẳng ai gọi ai cả. Tại sao? Chính tôi ngày nay vẫn không hiểu.

Hội ngộ giữa Sàigòn:

Tháng 7 năm 72, sau khi An Lộc được giải tỏa, tôi được giải ngũ và biệt phái trả về bộ Giáo dục, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, lúc bấy giờ trách nhiệm lãnh đạo Tân Đại Việt và Phong trào Quốc gia Cấp tiến, giao cho tôi hai công tác:

-     Một là,tổ chức Trí thức vận. Tôi đi tìm và gặp Mai Thanh Truyết sau đó hơn một năm trời tức là năm 1973 tại Sài Gòn; sau đó, tôi rủ Truyết đi cùng tôi đến gặp Chú Ba Huy. Sau mấy năm không gặp nhau mà trông Truyết đã già dặn hẳn, có một tấm vóc rất "giáo sư", rất "lãnh đạo", một người đang dấn thân và sẵn sàng dấn thân. Tuy mới gặp lại nhau, nhưng chúng tôi, sau khi bắt tay nhau, đi vào thẳng vấn đề, như vừa xa nhau ngày hôm qua.Truyết và tôi được Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, anh Ba chỉ thị lập thành một tổ riêng biệt, bí mật, tổ chức mạng lưới giáo chức. Chúng tôi tìm gặp những chuyên viên trong ngành giáo dụcđểtổ chức một mạng lưới giáo dục cho Việt Nam hậu chiến tranh.

Thừa lệnh Giáo sư, tôi đã giới thiệu Truyết vào Đảng và Truyết bí mật «Tê Đơ» Tân Đại Việt tại nhà Ông Cụ tôi, là anh Ba Xướng, đường Nguyễn Duy Dương, sau lưng trường Nam Sinh Mù chợ An Đông. Hôm ấy có mặt Giáo sư do ông cậu tôi là Thiếu tá Nguyễn Trọng Đệ chở đến. Hệ thống Trí thức Vận, Truyết và tôi, bị cạnh tranh rất mạnh bởi ảnh hưởng của ông cố vấn về sau Tổng trưởng Bộ Dân Vận là anh Hoàng Đức Nhã, cũng là anh bạn đồng môn trung học Lycée Yersin với tôi.

-     Công tác thứ hai nằm trong suy nghĩ tổ chức một Trường Đại học có nhiệm vụ năng luyện những quản trị gia chuyên nghiệp. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy giao cho tôi và anh Trần Minh Xuân dựng một Viện Đại Học thương mãi, «Trường Cao đẳng Thương mãi Minh Trí». Công tác là phải tạo một lớp cán bộ cán sự và chủ sự trong những ngành công thương nghiệp tư doanh của mạng lưới kinh tế tương lai của Việt nam.  Tôi làm nhiệm vụ đảm nhận trách nhiệm Trường Cao Đẳng Minh Trí với giáo sư Trần Minh Xuân. Truyết lúc ấy đang làm việc ở Đại học Sư Phạm Sài Gòn và cũng có vị trí tổ chức ở Viện Đại học Cao Đài, Tây Ninh, nên không cùng tôi trong công tác ấy. 

Mạng lưới Đại học Sư phạm, Đại học Cao Đài, Cao Đẳng Minh Trí đan với mạng lưới Quốc Gia Hành Chánh và các sĩ quan Quân đội Việt Nam Cộng Hòa sẽ củng cố vai trò của Đảng Đại Việt và các đảng viên Đại Việt tái thiết một Việt Nam hậu chiến tranh, với một tư tưởng, một lý thuyết, trong một đồng thuận nhứt định mà chất keo là tư tưởng và lý thuyết Đại Việt. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, Giáo sư Nguyễn Văn Bông đã gieo rắc cán bộ hành chánh của nền Cộng hòa Việt Nam với những ý niệm, quan niệm, tư tưởng cho một nền tảng chánh trị, hành chánh công minh, sáng sủa, với những quan niệm rõ ràng về dân chủ hiến định thực sự, đối trọng ngang tầm với một  đối lập xây dựng, kiểm soát (Nguyễn Văn Bông), với những chu kỳ thay phiên cầm quyền (Nguyễn Ngọc Huy) Quan niệm "Check and Balance" biến thành tập tục chánh trị dân chủ. Cùng với hai Giáo sư, cũng cần nên nhắc đến Ký giả Phạm Thái Nguyễn Ngọc Tân, tức anh Bảy Bớp đi gieo những hạt giống dân chủ.

Và hiện nay, cả ba con chim đầu đàn đã đi vào thiên cổ. Xin đốt lên một nén hương để tưởng niệm Ba Vị đàn anh trong gia đình Đại Việt.

Đến phiên chúng tôi, anh Trần Minh Xuân và tôi, chúng tôi lãnh sứ mạng gieo rắc và tổ chức mạng lưới cán bộ dân sự tương lai đóng góp cho mạng lưới quản lý các công thương nghiệp tư doanh cho Việt Nam thời hậu chiến tranh. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã nghĩ đến thời hậu chiến ngay từ những năm 70 của thế kỷ trước.

Viện Đại học Cao đẳng Thương mại Minh Trí khai giảng mùa nhập trường năm 1974 và tan hàng cùng với đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Những ngày mất ngày tháng:

Sau ngày Việt Nam Cộng Hòa tan hàng rã ngũ, anh em tứ tán bốn phương trời, tù đày cực nhọc nhiều hơn thoải mái sung sướng. Ba tôi và hai em tôi đi tù, tôi giữ trách nhiệm quản lý công ty BGI La Ve, nước đá, nước ngọt, núp bóng qua ngày.

Còn bạn tôi, Truyết, chỉ một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng 4, bị "mời" ra khỏi ban giảng huấn vì một tội danh, tuy không nói ra, nhưng qua những người đồng nghiệp, đó là tội "có tinh thần quần chúng" mà chế độ không thể chấp nhận một "đức tánh" chỉ dành riêng cho cán bộ đảng cộng sản mà thôi. Nhưng, với cái thông minh và tài năng của nghề nghiệp trong một cái ngành rất hiếm có ở Việt Nam, Truyết được một cán bộ ở Thành ủy lưu ý và mời về phụ trách Trạm Sản Xuất Thí Nghiệm, một tiền thân của Trung tâm Nghiên cứu Sản xuất thử, và sau cùng cho đến hiện tại là Ủy ban Khoa học thành phố ngụ tại 244 Đường Điện Biên Phủ, Sài Gòn.

Truyết cũng phải nín thở sang sông. Nhưng chúng tôi cũng bắt liên lạc lại với nhau. Cái hy hữu là chính những cán bộ quân quản Việt cộng ái mộ tài nghệ anh Tiến sĩ hóa học Mai Thanh Truyết giới thiệu Mai Thanh Truyết với tôi, Giám đốc một công ty sử dụng rất nhiều hóa chất, từ kỹ nghệ lạnh đến nước ngọt, la ve...

Ban ngày, chúng tôi, hai chuyên viên, có đôi lần gặp nhau ở văn phòng tôi, đường Hai bà Trưng. Nhưng tối đến, tôi thường, cùng các nhơn viên ra bến tàu hóng mát, ăn hột vịt lộn nhậu la de, và bạn Truyết cũng "tình cờ" có dịp ra hóng mát ở bến tàu nhập bọn với chúng tôi. Chúng tôi giữ rất bí mật, không bao giờ gặp riêng hai đứa, cạnh chúng tôi, luôn luôn có người, hoặc là dân BGI làm việc cùng tôi, hay giáo chức quen với Truyết, có khi có cả cán bộ quân quản BGI nhập bọn với dân la ve.

Trong cảnh tranh sáng tranh tối của bến tàu, chúng tôi cầm tay nhau, cố gắng ngó mắt nhau khích lệ lẫn nhau. Tôi không một lần hỏi thăm gia đình Truyết, xem vợ con Truyết thế nào? Cũng như Truyết không bao giờ hỏi thăm tình cảnh vợ con tôi.

Bạn với nhau cả nửa đời người, hai đứa chúng tôi vẫn không biết tên những đứa con của nhau. Gia đình Truyết, tôi chỉ thực sự gặp lần đầu, khi gặp nhau lại ở Mỹ năm 1994. Vợ chồng Truyết trái lại, đã đến thăm cha mẹ tôi sau năm 1978, sau khi Truyết ở tù về và trước khi vượt biển.  

Rồi đến phiên tôi đi tù, rồi đến phiên Truyết đi tù, Chúa Phật thương chúng tôi nên gởi anh bạn Truyết vào phòng giam của tôi. Chúa thương tôi nên tôi được bà vợ đầm la ó làm khó dễ với cơ quan công an quản thúc, nên tôi được đặc biệt thăm nuôi dồi dào và tử tế hơn những người tù khác. Để trả ơn Chúa, mâm cơm hằng ngày của tôi luôn luôn có những người bạn thay phiên chia sẻ, vì vậy tôi được hân hạnh làm quen với rất nhiều bạn, mà trong đời sống xã hội bình thường của Việt Nam tôi không có dịp gặp: những nhà văn nhà thơ văn nghệ sĩ, những tu sĩ, những cậu bé gan dạ anh hùng rải truyền đơn chống cộng sản như: các anh Nhà thơ Trần Dạ Từ, Họa sĩ Đằng Giao, Giáo sư Ma Xuân Đạo,  Linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Nhà báo Đinh Quang Anh Thái thời còn là một cậu học sinh lưu lạc, bác cựu Đại sứ Nguyễn Quý Anh, các Luật sư Mai Văn Lễ, Vũ Ngọc Truy, các đồng môn Lycée Yersin Luật sư Trần Danh San, Luật sư Nguyễn Hữu Giao, các Thầy Vũ Quốc Thông ... và nhiều bạn nữa nay không nhớ hết tên xin quý vị tha lỗi cho.

Thời gian Truyết ở tù chung phòng với tôi, Truyết ăn chung mâm cùng tôi và Đinh Quang Anh Thái. Thái không biết chúng tôi đã là anh em với nhau từ trước, vì tôi đối đãi với Truyết như là một người mới quen trong tù, sau nầy có thể  qua Mỹ, Thái mới biết anh em chúng tôi quen nhau từ lâu.

Nhờ là chuyên viên trong ngành chuyên môn, nên Việt cộng không xem Mai Thanh Truyết là ác ôn và Truyết được thả ra sau một thời gian "dằn mặt". Còn tôi tiếp tục lật vài cuốn lịch nữa trước khi "được" hay "bị" trục xuất đuổi về "xứ vợ" tháng 6 năm 1980.

Tái ngộ:

Năm 1989, sau bao năm tháng lưu lạc tha phương cầu thực ở châu Phi và châu Âu, tôi bỏ tất cả về định cư ở Poitiers và trở lại ngành dạy học. Hè 1994, nhờ vào ngành Giáo dục nên có nghỉ hè, tôi đi Mỹ thăm gia đình em gái, đây lần đầu tôi đi Mỹ. Và tôi gặp lại Mai Thanh Truyết và gia đình Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn. Mặc dù với Đảng, tôi đã bắt lại liên lạc với Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy ngay từ những năm 1980 khi tôi vừa đặt chân đến đất Pháp, nhưng sau đó, vì cuộc sống bên kia biển Địa Trung Hải nên tôi không có dịp sinh hoạt với nhóm của giáo sư Huy ở Paris. Vả lại Giáo sư Huy vẫn muốn tôi giữ tung tích kín, vì ông cần sử dụng tôi trong những công tác đặc biệt. Ông thường gọi điện thoại để giao cho tôi những công tác ngoài đoàn thể. Bác sĩ Nguyễn Tôn Hoàn cũng thế, khi gặp lại tôi, ông cũng không muốn để tôi lộ mặt ra. Và đối với Mai Thanh Truyết cũng thế.

Đấu tranh:

Gặp lại Truyết, câu đầu tiên là "bồ vẫn như ngày nào với mình sống chết có nhau" "Song sao Truyết vậy", và bắt tay cái cụp, chúng tôi có chụp bức hình kỷ niệm ấy, không biết Truyết, bồ còn giữ không? Mình trân quý nó lắm!

Và bạn Mai Thanh Truyết từ năm 2005, đã chấp nhận ra ánh sáng cùng với tôi điều hành Đại Việt Quốc Dân Đảng nên tôi mới kể chuyện nầy, trước là để cám ơn Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã dành cho tôi những ưu ái đặc biệt, sau cũng để giới thiệu bạn Mai Thanh Truyết.

Và chúng tôi, ngay những ngày ấy đã nhận rõ và chia vai trò với nhau: vai trò của Truyết phải trau dồi tài nghệ nghề nghiệp và để tái tạo một trận đánh trên lãnh vực khoa học, đánh vào cái chỗ yếu của Việt Cộng: môi sinh, môi trường, hóa chất, nước, nước thải, rác, hóa chất độc hại, cùng những vấn đề nhức nhối của Nhơn loại, và chỗ yếu của những nước kém phát triển và yếu kém về mặt quản trị. Vì đó là nghề của Truyết, Truyết sẽ đem nghề nghiệp, sở trường khả năng mình phục vụ cho chánh trị và đấu tranh cho dân chủ và tự do cho Việt Nam. Dùng nghề nghiệp, sở trường, và tấm lòng son sắt đối với quê hương của mình biến thành vũ khí đấu tranh chánh trị.

Còn vai trò tôi?

Tầm thường hơn, bổn phận tôi là tôi sẽ làm ông từ đường rán giữ cái nhà Đại Việt.

Gặp nhau lần đầu hai anh em đã thấy rõ chiến trường tương lai sẽ do môi sinh và môi trường chủ động, sông ngòi, nguồn nước, không khí, ô nhiễm, phân bón, rác rưới, nước thải...nói tóm lại kinh tế càng phát triển để nuôi sống con người, càng phải quản lý chặt chẽ và khoa học những đầu nguồn và những phế thải của sự sống của con người. Nói tóm lại phải biết phát triển bền vững và biết quản lý nguồn sống.  Môi trường sẽ là một đề tài chánh trị lớn, trị nước an dân vẫn sẽ do chánh trị, kinh tế nhưng chánh trị kinh tế là quản trị với môi trường, với đạo đức, trong sạch trong sáng, luật lệ phân minh và sống với quốc tế liên lập, khu vực, vùng, hợp đồng qua lại thế lưỡng lợi (Win-Win situation).

Những lý thuyết chánh trị, Cộng sản chủ nghĩa hay Tư bản chủ nghĩa chỉ dựa trên những lý thuyết phát triển kinh tế và tổ chức xã hội không nghĩ đến vai trò của Thiên nhiên và Môi trường đối với con người.

Nói tóm lại, các chủ thuyết chánh trị đều tranh dành cầm quyền làm chủ căn nhà và tổ chức làm ăn trong một căn nhà, nhưng không một ai nghĩ phải làm sao bảo quản căn nhà, sửa cái cột, lợp cái mái, sơn cái tường, đào cái giếng... Hãy học bài học canh tác của người Thượng miền Cao nguyên Nam Trung phần, họ canh tác xoay vần trên nhiều thửa ruộng khác nhau, họ luôn luôn chừa một thửa ruộng bỏ "góa", không canh tác một năm để đất ruộng ấy nghỉ (terre en jachère). Chặt cây đốn rừng thì phải trồng cây mới... phải sống với thiên nhiên, phải bảo quản thiên nhiên. Không khí, nước dùng, sông ngòi biển cả, rừng núi không phải là vô tận, phải biết quản lý và quản lý một cách khoa học. 

Đề tài sông Mê kông và sự sống còn của đồng bằng sông Cửu Long, anh em Hội Khoa học & Kỹ thuật mà Mai Thanh Truyết là một thành viên nồng cốt đã thấy và đã báo động với cộng đồng Việt Nam Hải ngoại và thế giới từ những năm '90 của thế kỷ trước. Rồi Chất độc Da Cam, rồi nước thải, rồi những bãi rác, Bauxite...mỗi đề tài Mai Thanh Truyết nêu ra là những mũi tên bắn thẳng vào kẻ thù.

Tiếng nói của Mai Thanh Truyết là tiếng nói của một nhà khoa học.

Tiếng nói chánh trị của Mai Thanh Truyết là tiếng nói một nhà khoa học có trách nhiệm.

Trên bàn viết tại nhà Truyết, tôi thấy một tấm "phướng" ghi bài thơ của một Phật tử tên Phổ Kiên (hiện nay là một Đại Đức)gửi cho Truyết ngày 21/9/2003 nhân chuyến viếng thăm nhà máy xử lý nước, nơi Truyết làm việc ở West Conina. Bài thơ có nội dung như sau:

 

Bồ tát thanh lương thủy

Thường du bất cánh không

Chúng sanh thủy cấu tịnh

Bồ đề ảnh hiện trung

Bốn câu thơ trên cũng nói lên phần nào con người của Truyết mong hướng đến!

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết không chống cộng vì cộng sản nó ngu nó dốt, nó khát máu, nó lưu manh, tóm lại nó không giống mình.

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết chống cộng và chỉ trích vào cái bê bối, cái vô trách nhiệm của những tay lãnh đạo Việt Nam, đang vì lòng tham tàn phá môi trường và đất nước chúng ta.

Truyết chứng minh với dư luận cộng đồng Việt Nam trong và ngoài nước, với dư luận thế giới, rằng hành động phản quốc của nhà nước Cộng sản đương quyền của Việt Nam khi cho Tàu khai thác Bô xít ở Cao Nguyên Nam Trung phần Việt Nam là một hành động bán nước, vì về mặt kinh tế không có cái lợi gì cả mà chỉ phá nước hại dân, phá hoại môi trường vùng cao nguyên, về mặt chánh trị làm chia rẽ đoàn kết dân tộc Việt, giữa các sắc tộc Thượng Chàm và Kinh. Trung Cộng, khi trúng thầu (thực sự do Trung Cộng cầu kết với Cộng sản Việt Nam) khai thác Bauxite, khi trúng thầu xây nhà máy điện nguyên tử ở Ninh Thuận, Phan Rang là đang có âm mưu cắt vùng Đông Dương làm đôi bằng cách tổ chức lại bình nguyên Bolloven với chương trình Đặc khu Kinh tế Bolloven (gồm tỉnh Attopeu - Nam Lào, tỉnh Mondolkiri - Bắc Cao Miên và vùng cao nguyên Nam Trung phần), cùng tỉnh Bình Thuận - Phan Rang Phan Rí, thành một vùng tự trị cho anh em dân tộc Thượng Chàm.

Hôm qua, Mai Thanh Truyết có mặt ở mọi mặt trận khoa học của Việt Nam, ngày hôm nay với những bài viết về sự hâm nóng trái đất Mai Thanh Truyết đang có mặt trong cuộc chiến của cả nhơn loại,  đang lo cho cái sống còn của quả địa cầu và nhơn loại.

 Mai Thanh Truyết lo cho địa cầu, lo cho tương lai nhơn loại. Mai Thanh Truyết vì có cái suy nghĩ của một nhà khoa học có trách nhiệm của những quốc gia đang phát triển, và cần phát triển, nên Mai Thanh Truyết không quá khích như những Đảng Xanh của thế giới các nước tiên tiến Âu Mỹ, đang có lý thuyết là đi ngược lại hay ngừng hẳn quá trình phát triển của các quốc gia. Các Đảng Xanh Âu Mỹ vì sống ở những xã hội sang giàu của thế giới tư bản, đang chống lại sử dụng nhiên liệu hầm mỏ cho rằng lạm dụng, phung phí và phá hoại môi trường, đòi dân chúng thế giới hãy bớt hay ngừng phát triển để khỏi tàn phá địa cầu. Nhưng các Đảng Xanh ấy quên các nước chậm tiến như Việt Nam của chúng ta cần phát triển, cần sử dụng cây rừng để có giấy, cần phân bón để canh tác, cần những hột giống đã được cũng cố hay thay đổi gène để chống sâu rầy (OGM-Organisme à gène modifié)... cần dầu mỏ nhiên liệu để có năng lượng cần cho phát triển...

Quả địa cầu ngày mai sẽ phải nuôi sống 9 tỷ dân, không biết tổ chức, bảo quản đàng hoàng sẽ có nạn đói, thiếu nước, thiếu đất canh tác sẽ là những vấn nạn nan giải.

Mai Thanh Truyết và tôi, hai anh em cùng một cái nhìn đấu tranh, chúng tôi chống cộng vì Cộng sản sau khi cướp chánh quyền bằng bạo lực, không biết quản trị đất nước, chống chủ nghĩa tư bản mà ngày nay chạy theo tư bản hỗn loạn, miệng nói xã hội chủ nghĩa mà hành động chống xã hội,...

Chúng tôi đấu tranh cho dân chủ trở lại Việt Nam, cho người dân Việt Nam lấy lại quyền tự quyết, cho Việt Nam lấy lại Tự do...

Chúng tôi chống nhà nước đương quyền Cộng sản vì họ bất lực trước sự xâm lăng của Trung Cộng, vì họ ươn hèn không một tiếng phản đối khi lãnh thổ bị xâm lấn, khi người ngư phủ Việt Nam bị tàu lạ mang biển số Trung Cộng đụng chìm.

Chúng tôi đấu tranh chống Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vì họ đang bán đất cho Trung Cộng, bán biển cho Tàu.

Sách là người, lời văn là tâm sự. Mai Thanh Truyết suốt những năm tháng qua cạnh tôi và các đồng chí chiến hữu thân hữu đại gia đình Đại Việt luôn luôn bằng ngòi bút, bằng những buổi nói chuyện trải lòng, trải giấc mơ của những anh em đồng chí chúng tôi. Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, người bạn hiền, anh bồ tèo, với cái tên gọi rất hóa học, do các bạn Tây đồng môn gọi Truyết là "Méthane". Tôi dốt từ khoa học không biết Việt Nam ta gọi méthane là gì, nhưng méthane là khí tự nhiên của những cơ thể đang phân hủy tạo thành có thể biến thành khí đốt và năng lượng. MaiThanh – Méthane Truyết hiện quản lý một nhà máy lọc nước, nước dơ nước bẩn nước phế thải vào nhà máy, qua một quá trình biến thành nước trong, nước sạch và có thể thành nước uống.

Tái tạo, luợm nhặt, thay đổi sử dụng lại. "Không có gì tự sanh ra, không có gì tự hủy hoại, tất cả chỉ sự thay đổi - Rien ne se crée, rien ne se perd, tout se transforme" Truyết đang áp dụng câu nói bất hủ của ông đàn anh Truyết, nhà hóa học đại tài Pháp Antoine Lavoisier 1743-1794.  Cũng như anh em đấu tranh chúng ta, những bài viết của Mai Thanh Truyết là những bài viết đấu tranh chánh trị chống độc tài cộng sản nhưng với những câu chuyện, những dẫn chứng, những biện minh khoa học.

Hãy đọc Mai Thanh Truyết để cùng đi với Mai Thanh Truyết trên một con đường đấu tranh cho sự tồn vong của dân tộc Việt Nam.

Hãy đọc Mai Thanh Truyết để cùng chúng tôi những đồng chí, những chiến hữu những thân hữu với Đại Việt, cùng đi trên con đường chủ thuyết Dân tộc Sanh tồn. Các chủ thuyết chánh trị hiện hành đều dựa trên những biện minh kinh tế và tổ chức xã hội. Dân tộc sanh tồn chúng tôi dựa trên con người.

Dân tộc sanh tồn là cái không gian sanh tồn của dân tộc Việt. Đảng trưởng Trương tử Anh, Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đã dẫn dắt chúng tôi đi trên con đường ấy. Đảng trưởng dẫn những người cha chú chúng tôi đấu tranh chống Pháp dành Độc lập, cho dân Việt. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy dẫn chúng tôi đi trên con đường dân chủ hiến định, tam quyền phân lập, đối lập thay quyền, tự do bầu cử, đa nguyên đa đảng.

Hãy đọc Mai Thanh Truyết để cùng chúng tôi đấu tranh cho Dân tộc Sanh tồn, đấu tranh cho cái không gian sanh tồn.

Mỗi dân tộc có một không gian sanh tồn, một môi trường sanh tồn không ai xâm lấn ai. Tôi trọng không gian sanh tồn anh, anh trọng không gian sanh tồn tôi.

Nam Quốc sơn hà Nam đế cư,

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư.

Hai câu muôn thuở của danh tướng Lý Thường Kiệt ngay từ đời Nhà Lý đã nói đến cái Không gian Sanh tồn của dân tộc Việt. Vua Nam ở nước Nam. Dân Việt ở đất Việt.

Hãy đọc Mai Thanh Truyết, để cùng chúng tôi tôi đòi lại cho dân Việt Nam cái quyền Dân tộc Sanh tồn của người dân Việt Nam, cho đất nước Việt Nam, quyền tự quyết của người dân Việt, cho đất nước Việt, cho không gian sanh tồn Việt. Không gian Sanh tồn dân tộc Việt do người Việt bảo quản người Việt quản lý.

Lúc xưa cha chú chúng ta chống Pháp để bảo vệ không gian sanh tồn, đòi quyền tự quản của không gian sanh tồn.

Hai mươi năm chống cộng cũng để bảo vệ cái không gian sanh tồn của người Việt Tự do, bảo vệ cái Quốc gia Việt Nam, cái không gian Sanh tồn dân tộc Việt. Khi miền Nam Việt Nam mất ngày 30 tháng 4 năm 1975, lúc ấy mọi người mới thấy rõ không gian sanh tồn người Việt không còn nữa, trốn chạy, tỵ nạn chỉ để tìm không gian sanh tồn mà thôi.

Hãy đọc sách Mai Thanh Truyết để cùng anh em chúng tôi chia sẻ con đường Dân tộc Sanh tồn để mãi mãi chúng ta có một không gian sanh tồn cho dân tộc Việt.

Cám ơn bạn Truyết đã gom lại thành sách những bài viết từ mấy năm nay, tâm sự tâm huyết của hai chúng mình, Truyết đã trải dài biến thành những dòng chữ.

Sách bạn sẽ là một đóng góp lớn cho công việc chung của tất cả các đồng chí và hai anh em chúng ta. Bạn sẽ tiếp tục cùng mình và các đồng chí lèo lái con thuyền Đại Việt. Đảng trưởng nhìn ta, anh Tư nhìn ta, anh Ba nhìn ta, anh Bảy, cậu Đệ, anh Ba Xướng... Truyết có nhớ ngày Truyết Tê Đơ, anh Ba Xướng dặn mình cái gì không? "Đường chông gai lắm, hai thằng nhớ nhẫn nại...  thua nhịn đã đành, thắng cũng phải biết nhịn".

Nhẫn nại nhé bạn!

Bạn viết bài là bạn mài gươm dưới trăng đó.

Hối Nhơn Sơn July 4th, 2013.

Phan Văn Song


 

 

 

 

HƯỚNG ĐẠI CHÚNG HÓA

NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM

 

Vào thời đại toàn cầu hóa, trong những năm qua, nhứt là sau hội nghị quốc tế Kyoto năm 1997, mối đe dọa hâm nóng khí quyển một thời, đã dấy lên làn sóng bàn tán xôn xao trong công luận nói chung về vấn đề môi trường.Nhưng rồi sau đó, mọi việc cũng lần đi vào lắng đọng, người dân thì hàng ngày lam lũ với kế sanh nhai, hầu như mặc nhiên phó thác vấn đề cho giới chuyên gia và quan chức hu quyn tùy từng nước. Nay với tập công trình biên khảo "Những Vấn Đề Môi Trường Việt Nam", tác giả Mai Thanh Truyết, cho thấy như vừa làm sống lại và gợi lên suy tư quay trở lại vấn đề môi trường, được lồng vào bối cảnh đặc thù của Việt Nam. Tác giả Mai  Thanh Truyết xuất thân Tiến sĩ hóa học Đại Học Besancon, Pháp, sau thời gian trau giồi kỹ năng hậu đại học tại Minnesota, Hoa Kỳ, đã hành nghề trong lãnh vực quản trị môi trường tại Nam California, Hoa kỳ.

Với mục tiêu đóng góp một góc nhìn "dân giả" từ bên ngoài giới khoa học kỹ thuật chuyên ngành, bài viết này xin lướt thoáng qua nội dung tập sách và từ đó, ghi lại một hướng khai mở nhận ra được của tác giả, vốn đặc biệt quan tâm đến an toàn môi trường của người dân Việt trong hiện tình.

1.    Nhìn lướt qua nội dung công trình biên khảo

Hầu như là một phản xạ tự nhiên, một độc giả bình thường, khi mới cầm trên tay tập sách "Những vấn đề môi trường Việt Nam" của tác giả Mai Thanh Truyết, là hình dung ngay trong trí, tưởng tượng đến một khung nội dung đan chen số liệu thống kê, công thức hóa học, báo cáo thử nghiệm, phát biểu phân tích đánh giá, phê bình có hệ thống, v.v...có vẻ như thuộc lãnh vực chuyên môn, dùng làm cơ sở trao đổi thông tin, tranh luận, giữa giới khoa học kỹ thuật với nhau, người dân thường khó mà nuốt trôi lắm. Cảm nghĩ ban đầu này càng hiện rõ, khi nhìn vào trang Mục lục khởi đầu bằng một chuyên đề lớn về thực trạng không còn xuyên suốt của dòng sông Mê Kông do các dự án phát triển bắt đầu từ thượng nguồn bên Trung Quốc, rồi lần xuống đến hạ nguồn qua các nước Lào, Thái, và cả chính Việt Nam, cùng đua nhau thực hiện các công trình ngăn nước, xây dựng các đập thủy điện, phục vụ nhu cầu và quyền lợi riêng của từng nước, không có và khó mà bàn định kế hoạch phối hợp chung về kỹ thuật sử dụng lượng nước một cách hài hòa đồng bộ.

Trong thảm cảnh này, vùng đất hạ lưu ở Tây Nam Nam Phần Việt Nam, ở vị trí cuối cùng có các cửa sông thoát ra biển, buộc phải hứng chịu tất cả hậu quả tai hại do nạn nhiểm mặn ngày càng lấn sâu từ ngoài biển đi ngược chiều vào đất liền, thu hẹp dần diện tích canh tác khả dụng lâu đời của người dân địa phương. Bên cạnh, ngoài ra, lại thêm nạn các công trình đê bao được thực hiện trong điều kiện thiếu nghiên cứu kỹ thuật khả thi cần thiết, phần lớn là để đáp ứng nhu cầu hiện ra trước mặt nhưng bất lợi tai hại về lâu về dài.

Qua các trang chữ, tập sách được kết thúc bằng một vấn nạn vĩ đại khác, không kém phần gây cấn cho đất nước Việt Nam, mà tầm gây hại cả vật chất lẫn tinh thần, đã khiến một số chuyên gia khoa học kỹ thuật trong nước, ở vào thế chẳng đặng đừng, không còn khép mình ngậm miệng rập khuôn theo lệ thường, và đã phải chánh thức lên tiếng bài bác. Đó là chuyên đề về các dự án khai thác Bauxite được nhà nước Việt Nam lẳng lặng giao cho Trung Quốc thầu khai thác, có hậu quả tạo bàn đạp cho nước lớn ở phương Bắc này từng bước thực hiện chiến lược bá quyền khu vực, qua các dự án thầu khai thác, trong lâu dài, âm thầm xâm lấn vào lãnh thổ Việt Nam.

Chuyên đề, ngoài ra, còn nêu lên vấn đề bảo tồn văn hóa và sắc tộc người thiểu số tức người Thượng là dân bản địa được công ước về nhân quyền Liên Hiệp Quốc bảo vệ. Liền trước chuyên đề có tầm mức quốc gia này, tác giả Mai Thanh Truyết cũng đã nhắc lại vụ kiện về độc chất da cam Dioxin, lưu ý thực chất vốn còn nhiều lưu luyến với thủ thuật tuyên truyền chánh trị quá thời.

Với hai chuyên đề lớn ghi trên ở hai đầu, tác giả Mai Thanh Truyết, tuy nhiên, đã gói gọn bên trong một loạt các bài chuyên khảo dưới tiêu đề chung là "Ô nhiễm" bao gồm những hiện tượng có vẻ gần gũi và quen thuộc với bàng dân thiên hạ hơn do những chi tiết phần lớn có liên quan trực tiếp đến cuộc sống thường ngày của người dân thường. Hiện tượng ô nhiểm có thể tự nhiên xảy ra trong thiên nhiên, nhưng bên cạnh, cũng do chính con người gây ra qua các lãnh vực sinh hoạt. Tác giả đã say sưa đưa người đọc tiếp cận với từng đề tài một, khởi đầu bằng vấn nạn hóa chất độc hại thạch tín với tên khoa học là "Arsenic", vốn tiềm tàng trong các mạch nước ngầm là nguồn cung ứng nước cho các giếng nước được các địa phương đua nhau đào trong những năm gần đây để cung ứng nước sinh hoạt hoặc tưới tiêu canh tác hằng ngày cho người dân, ít ai có thể tưởng tượng là thực sự, có tiềm năng tạo những mầm móng gây bao nhiêu bệnh hoạn tai hại cho chính mình. Biết được những tiềm năng tác hại đó, nhưng người ta vẫn tiến hành đào giếng, kể cả các kế hoạch do UNICEF tài trợ tại Ấn Độ và Bangladesh. Về mặt này, tác giả Mai Thanh Truyết đã đưa ra khuyến cáo "việc hoàn toàn dùng nước ngầm để nâng cao sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi thủy sản trong phát triển đất nước là không ứng hợp với chiều hướng phát triển bền vững toàn cầu".

Tác giả đã nêu lên và cảnh giác về nạn ô nhiễm do các chất thải trên các dòng sông Việt Nam, phát xuất từ các khu chế xuất và khu công nghiệp được đua nhau xây dựng tại Việt Nam trong những năm qua, một số cơ sở được thực hiện theo phương thức liên doanh với các công ty nước ngoài, gây nên rất nhiều tác hại cho môi trường do các chất thải không được xử lý đúng cách bắt buộc cần thiết để bảo đảm an toàn sức khỏe của người dân địa phương.

Về "Ô nhiễm mặt đất", tác giả đã khẩn thiết nêu lên hai nhóm chính là rác do sinh hoạt hàng ngày của người dân tại nhà và chất phế thải kỷ nghệ là phó sản của các quy trình công nghệ sản xuất hay chế biến. Tác giả đã phân tích cho thấy tầm mức quan trọng trong công việc tổ chức quản trị điều hành thu gom rác và nhứt là tập trung rác ở các bãi rác, chẳng những gây ô nhiễm không khí mà người dân hít thở hàng ngày mà còn đòi hỏi kỹ thuật ngăn chận rác phân hủy, tạo ra chất độc ngấm vào lòng đất, có khả năng hòa lẫn với các luồng nước ngầm được vận dụng trở lại vào nguồn nước sinh hoạt cho người dân.

Do đó, cấu trúc các bãi rác đòi hỏi phải thiết trí theo đúng quy cách với một lớp cách ly ở dưới cùng theo một kỹ thuật được quy định, để ngăn không cho chất thải ngấm vào lòng đất. Minh họa vấn nạn ô nhiễm môi trường do rác, tác giả đã đi vào hiện trường cụ thể của khu vực Saigon, dùng bãi rác Đông Thạnh, Khu liên hợp Đa Phước, làm trường hợp điển hình có liên quan đến cách xử lý của quan chức hữu quyền, nhấn mạnh đã đến giai đoạn trầm trọng, phô bày những tình tiết ly kỳ, nhìn trước nhìn sau, có vẻ không giống ai cả. Tác giả lên tiếng đòi hỏi biện pháp giải quyết nghiêm chỉnh, không còn có thể chần chờ dành cơ hội hướng theo lối chữa cháy nhứt thời cho qua truông nữa.

Chất phế thải y tế là những chất phế thải từ các bệnh viện qua các dịch vụ chữa trị, giải phẫu và thử nghiệm, v.v, cũng đã được tác giả quan tâm phân tích, và trên cơ sở các kinh nghiệm xử lý tại các nước đang phát triển, nêu rõ tầm tác hại còn nghiêm trọng hơn cả chất thải kỹ nghệ và chất thải gia cư, do bởi có nguy cơ trực tiếp ảnh hưởng tức khắc đến sức khỏe của bệnh nhân cùng người dân lui tới bệnh viện, rồi từ đó, phát khởi lây lan thành các bệnh dịch hiểm nghèo cho cả vùng.

Tác giả cũng đã cảnh giác về dịch vụ nhập cảng phế liệu độc hại như giấy vụn đủ loại, giấy carton, các loại nhựa dẻo, bao nhựa nylon, thiết bị cũ, v.v... vào Việt Nam là dịch vụ khá thịnh hành, nhằm biến thành nguyên vật liệu hay tái thành phẩm trong sản xuất. Đặc biệt, công nghệ tái tạo phế liệu điện tử đang nở rộ, cần thông qua công đoạn xử lý trước khi thải hồi vào các bãi rác.

Triển khai chuyên đề thực phẩm Việt Nam, tác giả đã tạo ra những bất ngờ vừa lý thú vừa kinh sợ do các hóa chất độc hại thường được sử dụng một cách vô tội vạ trong thực phẩm Việt Nam như hàn the, Sulfite, Formol, Urea, Thủy ngân...  Xì dầu thường không thể thiếu trong các bữa ăn hằng ngày của người dân Việt, thực tế, lại có thể tiềm ẩn độc chất qua các giai đoạn chế biến. Do đó, vệ sinh an toàn thực phẩm đã được tác giả Mai Thanh Truyết trung thực nêu lên kèm theo những gợi ý hữu ích cần được nhà cầm quyền Việt Nam lắng nghe.

2.    Ghi nhận hướng đại chúng hóa

Nhìn lướt qua nội dung tập sách "Những Vấn Đề Môi Trường Việt Nam", người đọc ai nấy đều đồng ý công nhận, quả thật, đây là một công trình biên khảo, đòi hỏi người thực hiện phải được trang bị những hiểu biết, những kỹ năng khoa học chuyên ngành, không có không được. Tác dụng của công trình biên khảo được nhận thấy ngay là tác dụng gợi lên ý thức nhận diện và soi sáng các vấn đề, đăc biệt quan tâm lưu ý đến đại đa số người dân, tức vào đại chúng trong xã hội, vốn không được đào tạo trường lớp như các chuyên gia, nhưng lại là giới người thường xuyên là các nạn nhân của các thảm họa, và riêng ở đây, là các thảm họa môi trường, gián tiếp và trực tiếp, hiện rõ hoặc âm thầm, gây hại đến an toàn sức khỏe của họ cùng gia đình họ trong cuộc sống hằng ngày.

Trong một dịp tình cờ tiếp chuyện với một thân hữu là bạn Nguyễn Lộc Thọ thuộc gia đình Đại học Sư Phạm Saigon, người viết đã được nghe anh Nguyễn Lộc Thọ phát biểu, với công trình chuyên khảo "Những vấn đề Môi Trường Việt Nam", Mai ThanhTruyết đã mang đến niềm tự hào chung cho người con đất Hậu Nghĩa".

Xin mở dấu ngoặc (Người bạn già Nguyễn Lộc Thọ cũng có hai đứa con trai cùng đứa con dâu học hành thành đạt và đang hành nghề bác sĩ y khoa ở Nam California, Hoa Kỳ, nhưng bản chất khiêm cung, chưa bao giờ một lần được nghe Nguyễn Lộc Thọ khoe tự hào về các bác sĩ y khoa này). Đóng ngoặc.

Từ đánh giá này, mới lần dò tìm hiểu về gốc nguồn, thì được biết tác giả Mai Thanh Truyết cũng như người bạn đồng song Nguyễn Lộc Thọ, đều vốn là người sanh ra từ vùng đất mẹ Hậu Nghĩa. "Hậu Nghĩa" là tên gọi một đơn vị hành chánh tỉnh được thành lập dưới thời Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 với một phần đất của tỉnh Tây Ninh và một phần đất của tỉnh Long An. Sau năm 1975, hai phần đất này đã được giao hoàn trở lại hai tỉnh cũ, nhưng tên "Hậu Nghĩa" vẫn còn được những người dân gốc Hậu Nghĩa định cư tỵ nạn tại Hoa Kỳ và tại các nước khác dùng để nhận ra và tìm lại với nhau. Cụ thể, một hội đoàn đã được chánh thức thành lập tại Nam California lấy tên là "Gia Đình Hậu Nghĩa Hải ngoại" sinh hoạt đều đặn, và chính nhờ bạn Nguyễn Lộc Thọ là đương kim Phó Chủ Tịch Ngoại  vụ của Hội đoàn này tặng cuốn Đặc san Hậu Nghĩa, Xuân Canh Dần 2010, người viết mới có dịp được đọc bài "Hậu Nghĩa Quê tôi" của học giả Đặng Tử Anh là một bài viết nghiên cứu công phu làm nổi bật những nét đặc thù của vùng đất Hậu Nghĩa thân thương, để từ đó, chân thành suy diễn liên hệ với cách nhìn, cách diễn đạt các tình huống, cách khai triển công trình chuyên khảo "Những Vân Đề Môi Trường Việt Nam" của tác giả Mai Thanh Truyết.

Tỉnh lỵ Hậu nghĩa nguyên đặt tại Khiêm Cương, trong dân gian tục gọi là Bàu Trai, người viết trên đường công vụ trước năm 1975, cũng đã có vài ba dịp ghé qua tỉnh lỵ này, nhưng để được chính xác, cần theo ghi nhận của học giả Đặng Tử Anh, cho biết, "Hậu Nghĩa là một tỉnh nông  nghiệp, ruộng sâu, lúa tốt, và nhiều nông sản như mía, thơm, đậu phộng thuốc lá, củ cải, dưa cà,v.v...Làng mạc rất rộng, nhà cửa thường có lũy tre xanh bao bọc. Dân tình hiếu khách hiền lành". Đến mùa cấy, người dân họp tổ chức thành những vạn cấy bao gồm từ 20 đến 30 người vừa lao mình vào công cấy vừa say sưa với những câu hò đối đáp nhau, chất chứa bao nhiêu tình cảm gắn bó, đôi khi còn sống động chen lẫn với những câu đối bình dân nhẹ nhàng hấp dẫn, thú vị, khiến con người ta như quên đi những cơn nhọc nhằn trong công việc đồng áng. Tính bình dân, nhẹ nhàng, thú vị này ngày nay đã tan biến cùng với tập tục hò hát trong bối cảnh ruộng đồng bát ngát, sông nước suôi chảy êm đềm, nhưng qua ghi nhận của học giả Đặng Tử Anh, về những câu hò đối đáp, "với tình yêu quê hương bản thổ sẵn có, chúng ta vẫn nhớ và thường kể lại cho con cháu ở hải ngoại nghe trong nỗi xót xa, u hoài".

Người đọc hôm nay còn được cảm thấy những chi tiết chất chứa đầy tình người kể trên như phảng phất đâu đây xuyên qua lời văn trong công trinh chuyên khảo "Những vấn đề Môi Trường Việt Nam" của đứa con xa xứ Mai Thanh Truyết, thuộc vùng đất mẹ Hậu Nghĩa. Cụ thể, ngay trong phần Dẫn nhập" tác giả đã khai mở tiếp cận khoa học kỹ thuật của mình, minh họa tệ trạng thụt lùi đen tối trong quản lý và phát triển đất nước bằng những vần thơ "vầng trăng nghẹn ngào, chưa tỏa sáng một vùng quê" của Hoàng Tường Phong, giải nhứt cuộc thi sáng tác thơ "Đồng bằng sông Cửu Long", nhưng giải thưởng đã bị "truất" chỉ sau vài ngày kết quả cuộc thi thơ được công bố! Đây là một sáng kiến độc đáo đưa công trình chuyên khảo của Mai Thanh Truyết đến gần gũi và hòa nhập với quần chúng nhứt.

Vốn chan chứa tình cảm, tác giả đã đưa hình tượng xúc động để đặt bài tựa cho chuyên đề đầu tiên theo phương thức nhân cách hóa thiên nhiên, gây một ấn tượng ban đầu rất sâu sắc cho người đọc: "Sông Mê kông: nỗi nghẹn ngào của vùng hạ lưu". Vùng hạ lưu này, trên thực tế, bao gồm cả đất Hậu Nghĩa chôn nhau cắt rún của tác giả nữa. Từ ngữ "nghẹn ngào" trong tình huống này, được tác giả vận dụng để hình dung luôn một nổi niềm u uất, không biết cái gì để mà nói đồng thời dù có biết, có nhận biết sự việc đi nữa, cũng không thể nói lên được cái gì cả. Chưa nói đến sự thuyết phục, lối mô tả đầy xúc cảm ấy vô cùng sâu sắc và thắm thía, thiết thực đóng góp hữu hiệu vào việc đánh thức suy tư và sự đồng cảm của người dân thấp cổ bé miệng trong cuộc..

Ngay trong những đoạn sách đề cập cảnh huống tối đen của đất nước, tác giả Mai Thanh Truyết còn nghĩ ra lối vận dụng tình cảm ái mộ của quần chúng bằng lối kết nối các tựa bài ca nhạc được ưa thích trong dân gian minh họa với những hình tượng đầy màu sắc hấp dẫn và thu hút người đọc vào sự việc đang được phân tích hoặc đề cập. Lối kết nối văn nghệ này đôi khi cũng là lợi khí sắc bén nhứt để nói lên và khai thác một thái độ châm biếm một tệ trạng xã hội.

Ngoài ra, để biểu tỏ phong cách khiêm cung cố hữu của một nhà khoa học, đứa con của đất Hậu Nghĩa, người đọc còn bắt gặp Mai Thanh Truyết trong một vài đoạn văn đã "Xin thưa" như là một lời mờ đầu câu chuyện sắp tỏ bày về vấn đề môi trường.

Cọng thêm những lời lẽ lúc nào cũng bộc trực, chơn chất, đơn giản, không câu kỳ se sua vòng vo bề ngoài, tác giả đã tranh thủ được niềm tin cậy của người đọc, khiến hướng đại chúng hóa những vấn đề môi trường Việt Nam trở thành hiện thực. Điều đó cũng minh chứng một hướng triển khai chuyên đề đúng và thích hợp với hiện trạng còn đầy rẫy, chồng chất, trở ngại, khó khăn trong lãnh vực "quản lý nhà nước", một lãnh vực cho thấy còn nhiều mặt tiêu cực do:

-           Thiếu hệ thống luật pháp cùng các quy lệ thành văn minh thị xác định quyền ưu tiên trong hệ thống quản lý nhà nước vốn phải đảm bảo tính trong suốt (transparency);

  Thiếu kỹ năng (phần lớn do nạn "bằng cấp giấy"),v.v...

Đi vào cụ thể trong những vấn đề môi trường Việt Nam, có thể nhắc lại lời giải bày trơ trẻn không chút ngượng nghịu của một quan chức hữu quyền đã được loan tải trên mạng sau vụ án về những thiệt hại xảy ra cho đồng bào cư dân ở vùng bờ Cần Giờ, Vũng Tàu, do chất thải độc hại được cho thoải mái tuôn ra từ một nhà máy năm này qua năm khác. Được hỏi, tại sao lại có thể xảy ra như vậy, quan chức này đã tỉnh bơ nói: "Đó là do hệ thống thanh tra còn quá mỏng" (!)

Người dân tự hỏi, việc chất thải độc hại tuôn chảy từ nhà máy gây ô nhiễm khắp vùng, người dân phải chịu đựng từ năm này qua năm khác, từ năm 1997 đến bây giờ (2010) đâu phải là một một việc tiểm ẩn đâu mà phải chờ mấy ông thanh tra đến ghé mắt thì mới phát hiện và xử lý? Mọi người dân trong vùng, nếu được tạo điều kiện tiếp cận để nhận thức vấn nạn, hoặc nếu được thông suốt về các thủ tục cần thiết, được xác định không giới hạn trong thẩm quyền của riêng quan chức nhà nước, vấn nạn sẽ được thanh toán nhanh chóng. Nói khác, trong những vấn đề môi trường Việt Nam, người từ cương vị "nhân dân làm chủ" của mình, cần được tạo điều kiện tích cực tham gia vào công việc điều hành quản lý nhà nước (?)

Người dân còn có thể vận dụng tai và mắt mình để nghe ngóng, để theo dõi sự việc trước vấn nạn môi trường, do họ thường ngày hiện diện bên cạnh nhà máy có liên quan, hoặc, có người còn làm công nhân nhà máy này, làm gì mà không thu thập được những thông tin về các tệ nạn nếu họ nhận thức được. Và mọi người sẽ cùng cảm thấy quá lố bịch và trơ trẻn, khi nghe quan chức hữu quyền giải bày thêm, "sự kiện nêu lên có lẽ được nhận ra, nhưng vì tình hình kinh doanh của nhà máy đang ở trong giai đoạn khó khăn, chủ kinh doanh, vì bị thua lỗ, không thể chi thêm khoản tiền để lắp đặt trang bị xử lý nước thải theo đúng yêu cầu". Rồi thì cứ để cho dòng chất độc hại tuôn chảy, gây thảm họa cho cuộc sống và sức khỏe người dân trong vùng! Vì quá trình mỗi công trình đầu tư sản xuất đều được đặt trên cơ sở các bản "Luận chứng kinh tế kỹ thuật" hoặc "dự án tiền khả thi", "dự án khả thi" được giới chức hữu quyền cứu xét và thông qua cho phép thực hiện, nên cần phối kiểm lại rõ ràng xem các văn kiện này có trù liệu biện pháp xử lý nước thải cho nhà máy hay không. Nếu có mà không thực hiện, thì là bằng chứng vi phạm luật pháp, cần có biện pháp chế tài. Chớ có đâu lại có thể dễ dãi linh động như lời giải bày của quan chức hữu quyền như trên để phó mặc người dân trong vùng phải gánh chịu mọi hậu quả tai hại như vậy? Đó là một nghịch lý mang nặng tính nhẫn tâm, sẽ không xảy ra, nếu người dân được tạo điều kiện nhận thức tai họa đồng thời hiểu biết về mặt thủ tục để đóng góp xử lý qua câu hỏi được nêu lên.

Hướng đại chúng hóa những vấn đề môi trường của tác giả Mai Thanh Truyết đang triển khai qua những luận điểm kể trên là một hướng hoàn toàn đáp ứng với nhu cầu trong những vấn đề môi trường đã được trình bày. Nhiều góc cạnh của công trình chuyên khảo với chủ điểm mang lại ánh sáng soi đường hữu hiệu cho đại chúng nói chung cho thấy đã nhằm đúng tiêu điểm, trên thực tế, dù vậy, vẫn cần đóng góp thêm ý kiến xây dựng lành mạnh trong từ trong giới khoa học kỹ thuật chuyên ngành cả trong lẫn ngoài nước.

Trong một thời gian gần đây, Tiến sĩ Mai Thanh Truyết đã trở thành một gương mặt quần chúng rất quen thuộc qua các buổi xuất hiện tại các buổi hội luận chuyên đề của một số Đài truyền hình, Đài phát thanh VOA, RFA của Hoa kỳ, RFI của Pháp, trên YouTube v.v...về hiện tình đất nước Việt Nam trong đó, vấn đề môi trường đã được Tiến sĩ đặc biệt quan tâm triển khai qua các mạng Internet, các chương trình Pal Talk. Đặc biệt, nhân Tết Canh Dần, 2010 vừa qua, Tiến sĩ đã mạnh dạn lên tiếng về vấn nạn hóa chất độc hại trong thực phẩm, bánh mứt, là những món ăn Tết truyền thống của người dân Việt. Sinh hoạt này thực sự cần được xem là một đóng góp vô cùng quý giá của Tiến sĩ nhằm bảo vệ an toàn sức khỏe của người dân, vốn là mục tiêu tối hậu của những vấn đề môi trường tại Việt Nam, không khép mình dước các thế lực của giới doanh gia trục lợi gây thảm họa cho người dân.

Trước mắt, riêng người viết bài này ước mong tập sách chuyên khảo của Tiến sĩ Mai Thanh Truyết, người con yêu của đất mẹ Hậu Nghĩa thân thương, sẽ sớm đạt được mục tiêu cao đẹp tích cực đóng góp vào công cuộc đại chúng hóa và sẽ là một tập sách không thể thiếu trong tủ sách gia đình của người dân Việt ý thức trách nhiệm bản thân trước hiện tình đất nước, thực sự quan tâm đến những vấn đề môi trường Việt Nam.

Nam California, Hoa Kỳ

Ngày 6 tháng 9 năm 2010.

Đỗ Hải Minh_____________________
 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-

"Behold I do not give lectures or a little charity; When I give I give myself".Walt Whitman

 
 

 

 

 
 
 
 
//////////////////////////////////////////////////