___________Chiều Hướng Phát Triển Mới Cho Việt Nam

 

Việt Nam nằm giữa hai anh khổng lồ cả về dân số lẫn đất đai, một ở Đông Á, và một Nam Á. Đó là Trung Cộng và Ấn Độ. Trong quá trình lịch sử, Việt Nam đã chịu quá nhiều ảnh hưởng từ hai quốc gia kể trên về tôn giáo, triết học, văn hóa, đời sống và cấu trúc xã hội. Dĩ nhiên, vấn đề phát triển quốc gia cũng không nằm ngoài hai ảnh hưởng của hai nước nầy. Từ đó, tầm nhìn từ phía bên ngoài cũng như não trạng tiếp cận với các quốc gia Tây phương của ba quốc gia có nhiều điểm tương đồng cần phải lưu ý. 

Dù mỗi quốc gia chịu sự chi phối và quản trị dưới một chính thể chính trị khác nhau, nhưng khi quan niệm sống còn trong cộng đồng thế giới đã thôi thúc lãnh đạo của từng nước phải biết tiếp cận ra ngoài, và phải mở cửa để đi vào dòng chính của tiến trình toàn cầu hóa. Từ quan niệm trên, Trung Cộng (TC) đã tiến một bước trước, tức là bắt đầu mở cửa và hội nhập vào thế giới từ năm 1979. Tiếp theo đó là Việt Nam năm 1986, và sau cùng là Ấn Độ (AĐ), 1990. 

Tuy thời gian mở cửa và hội nhập khác nhau, nhưng qua những đặc thù của từng quốc gia, cùng cung cách tiếp cận với thế giới bên ngoài, chúng ta có thể hình dung được mô hình phát triển nào tương đối đem lại nhiều phúc lợi hơn cho người dân. Thêm một lý do nữa để mang ba quốc gia trên so sánh là cả ba đều phát xuất từ nông nghiệp làm căn bản và mức tăng trưởng đều đặn trong chu kỳ 10 năm trở lại đây. 

Bảng so sánh về một số dữ kiện xã hội, kinh tế, dân số, lao động, và phát triển cùng lợi tức của người dân dưới đây cho chúng ta thấy mức độ phát triển của từng quốc gia một, để từ đó hy vọng rút tỉa ra được con đường mà Việt Nam sẽ phải đi để tránh khỏi tụt hậu phía sau.

Đi thụt lùi không phải vì kém tri thức, không phải vì thiếu tài nguyên, không phải vì khác điều kiện tiếp cận với thế giới bên ngoài cùng các công nghệ tiên tiến mới. Mà tụt hậu là vì có một chính sách phát triển không thích hợp với thời đại mới: thời đại của thông tin trên mạng lưới. 

Định mức sự phát triển quốc gia cho đến nay vẫn còn căn cứ vào thuyết "tam khu vực" của Colin Clark (1908-1989), Giáo sư Kinh tế học, trong khi khảo sát sự phát triển kinh tế của nhiều quốc gia trên thế giới, để từ đó đúc kết một mô hình phát triển chung trong đó, gồm khu vực nông nghiệp (agriculture), khu vực công nghiệp (industry), và khu cực dịch vụ (service). Từ đó qua sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số phát triển của một quốc gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vực. 

Tiến trình phát triển quốc gia nói chung được ghi nhận vào các giai đoạn sau đây:

1-    Trước hết 3 quốc gia vừa kể trên chọn nông nghiệp làm chính cho giai đoạn ban đầu;

2-    Khi mức sản xuất nông nghiệp đáp ứng được cán cân cung cầu trong nước, từ đấy sẽ đẩy mạnh công nghiệp sản xuất;

3-    Và sau giai đoạn công nghiệp, dịch vụ sẽ là trọng tâm trong phát triển.

Do đó, đối với một quốc gia, một khi tỷ lệ dịch vụ và công nghiệp sản xuất càng cao, sự phát triển của quốc gia đó càng tăng thêm mức bền vững và giảm thiểu được nguy cơ khủng hoảng. 

Dưới đây là Bảng thống kê một số dữ kiện phát triển của 3 quốc gia Việt Nam, Ấn Độ và Trung Cộng căn cứ vào thông tin của cia.gov trên mạng lưới toàn cầu. 

Bảng Thống Kê

 

Việt Nam

Ấn    Độ

Trung Quốc

Bắt đầu mở cửa

1986

1990

1979

Diện tích           

                                   

329.560Km2

2.973.190Km2

9.326.410Km2

Dân số             

 

82.698.518 (7/2004)

1.065.070.607(7/2004)

1.298.847.624(4/2004)

Mức gia tăng dân số    

 

1,3%(2004)

1,44%(2004)

0,57%(2004)

Tuổi trung bình     

24,9 tuổi

24.4tuổi

31,8tuổi

 

Lực lượng lao động.        

 

45,7 triệu(2003)

 

472triệu(2003)

 

778triệu(2003)

Tỷ lệ lao động:

- Nông nghiệp            

- Kỹ nghệ                     

-Dịch vụ                                   

 

63%(2000)

 

37%(2000)

 

(cả hai)

 

60%(1999)

 

17% (1999)

 

23%

 

50% (2001)

 

22%(2001)

 

28%

GDP tăng trưởng

7,2%(2003)

8,3%(2003)

9,1%(2003)

Mức lạm phát

3,8%(2003)

3,1%(2003)

1,2%(2003)

Lợi tức đầu người:

-   1980

- 2003                         

 

$180

$450

 

$280

$520

 

$280

$900

Mãi lực toàn quốc         

$203,7tỷ(2003)

$3.000tỷ(2003)

$6.449tỷ(2003)

Mãi lực tính theo đầu người*      

 

$2.500(2003)

$2.900(2003)

$5.000(2003)

 

(*) Purchasing power parity

Khả năng tạo dựng của cải cho xã hội 

Nhìn chung, mức tăng trưởng của ba quốc gia nầy trong 10 năm trở lại đây đã đứng đầu trong vùng Á Châu, Việt Nam đi chậm hơn một bước với mức tăng trưởng trung bình là 7%. Nếu so sánh với mức lạm phát mức tăng trưởng thực sự của Việt Nam, AĐ, và TC sẽ là 4,1%, 4,5%, và 7,9% (mức tăng trưởng trừ đi mức lạm phát). Do đó, cả Việt Nam và AĐ vẫn phát triển chậm hơn TC dù TC phải cưu mang một lượng dân số cao nhất. 

Về dân số, TC đã kiểm soát được việc gia tăng dân số với mức sinh sản hàng năm là 0,57% (2004), trong lúc đó Việt Nam và AĐ vẫn không kềm hãm được mức gia tăng nầy. Do đó, theo ước tính vào năm 2025, AĐ sẽ qua mặt TC với 1,5 tỷ so với 1,4 tỷ, và Việt Nam sẽ đạt đến mức 120 triệu nhân khẩu. 

Ngược lại với mức kiểm soát sinh sản trên, điều nầy sẽ là một cản ngại cho TC trong vòng 20 năm sắp đến, vì nạn thiếu lao động và vì tuổi lao động trung bình sẽ lên đến 40 tuổi do đó khả năng tạo ra của cải vật chất sẽ sút giảm đi. Điềi nầy đã bắt đầu xuất hiện trong năm 2013 rồi.

Lợi tức và Mãi lực của người dân 

Vào năm 1980, lợi tức đầu người của Việt Nam là $180, AĐ và TC, $280/năm. Nhưng cho đến năm 2004, lợi tức TC tăng lên gần gấp đôi so với AĐ, $900 và $520, trong lúc đó lợi tức của Việt Nam là $450. Tỷ lệ tăng trưởng theo lợi tức trong khoảng thời gian nầy là 3,2, 2,9, và 2,5 lần cho TC, AĐ và Việt Nam.

Dĩ nhiên, Việt Nam vẫn còn chậm bước dù đã mở cửa trước AĐ gần 5 năm. 

Bài viết có mục đích truy tìm cách lý giải tại sao Việt Nam vẫn còn chậm bước mặc dù có những điều kiện không khác biệt so với hai quốc gia đông dân trên. Thêm nữa, việc phân tích những điểm mạnh của TC so với AĐ, hai quốc gia đã từng có chung một lợi tức đầu người từ năm 1980; mà hôm nay, TC đã mang lại một lợi tức gần gấp đôi AĐ, và Việt Nam. 

Những bước phát triển của Ấn Độ 

Từ những năm đầu của thập niên 80, AĐ bắt đầu gữi sinh viên ồ ạt qua các nước Tây phương đặc biệt là Anh Quốc và Hoa Kỳ, và có thể nói cho đến ngày nay, AĐ đã dành địa vị độc tôn ở Á Châu về việc cung cấp dịch vụ và công nhân chuyên nghiệp cho Tây phương. Thung lũng về điện tử ở vùng San Jose (California) từ năm 2001 trở đi bị khốn đốn vì hàng trăm ngàn chuyên viên cao cấp trong ngành nầy đã đồng loạt trở về AĐ. Dĩ nhiên, AĐ trở thành trung tâm cung cấp dịch vụ điện toán cho toàn cầu. Năm 2008, AĐ có khả năng cung cấp 4 triệu công nhân loại nầy cho thế giới. Và chính mức tăng trưởng của AĐ đã góp phần lớn vào dịch vụ điện toán trên. 

Trước khi bắt đầu mở cửa năm 1990, AĐ vẫn còn đeo đuổi chính sách "tự quản" "tự túc", nghĩa là cố gắng tạo đủ sản phẩm vật chất để xử dụng cho nội địa. Do chính sách phát triển khép kín trên đã làm chùng bước mọi ý muốn đầu tư của những nhà đầu tư ngoại quốc. Do đó công nghiệp sản xuất của AĐ không thể nào phát triển và theo kịp đà tiến bộ chung trên thế giới. 

Mặc dù AĐ có nhiều lợi thế khi chuyển sinh viên và chuyên viên ra ngoại quốc vì họ thông thạo Anh ngữ, nhưng AĐ chỉ đẩy mạnh vai trò dịch vụ và tin học mà không phát triển các công kỹ nghệ sản xuất các mặt hàng gia dụng. Trong lúc đó nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong cán cân sản xuất. Điều nầy tạo ra hai giai cấp bất bình đẳng trong xã hội: AĐ có 7% dân số có trình độ Tiến sĩ và 42% dân số không biết chữ. 

Nhưng từ khi có chính sách đổi mới 1990, mọi sự bắt đầu thay đổi, luật đầu tư giản dị hơn, chính sách thuế quan có phần dễ dãi và giảm bớt phiền toái cho thương nhân ngoại quốc...và đó là hai điều kiện đầu tiên để thu hút đầu tư. Và cũng từ đó, nạn chợ đen và tham nhũng cũng giảm dần theo mức độ du nhập của ngoại quốc vào chính quôc gia nầy. Và cũng từ mốc thời gian trên, các công ty đa quốc gia ồ ạt chiếm lĩnh thị trường và hôm nay, thủ phủ Karnataka ở phía Nam AĐ trở thành một thung lũng silicon mới của Á Châu. 

Đồng thời với đầu tư ngoại quốc, AĐ đã đẩy mạnh cuộc cách mạng xanh trong kỹ nghệ sản xuất, với mục đích làm giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường, và sau nữa dần dần đẩy lui nạn đói nghèo qua chính sách mở cửa tiếp cận với hầu hết các quốc gia trên thế giới để áp dụng việc đẩy mạnh công nghệ tiên tiến cho nhu cầu trong nước. Đây là một chính sách thật sự mềm dẽo, và là một bài học cho những quốc gia còn mang nhiều định kiến về ý thức hệ chính trị trong giao thương kinh tế và phát triển. 

Kết quả, sau 13 năm đổi mới AĐ có mức dự trử ngoại tệ nặng cho năm 2003 là 100 tỷ Mỹ kim. Tuy nhiên với mức lợi tức đầu người cho năm 2004 là $520 và mãi lực tính theo đầu người là $2.900/năm, 35% dân số AĐ vẫn phải chịu sống dưới mức đói nghèo tuyệt đối theo định nghĩa của LHQ là $1/ngày/người. Do đó, AĐ cần phải đẩy mạnh hơn nữa về kỹ nghệ sản xuất và dịch vụ để thu hút lực lượng lao động cho nông nghiệp hiện đang chiếm tỷ lệ 60% trên cả nước. Hiện tại, AĐ vẫn còn khoảng 400 triệu người dân sống dưới mức nghèo đói, hậu quả của chính sách phân biệt đẳng cấp dân chúng: dân thượng đẳng và thường dân.

Nhìn chung, trong thời gian đầu khi mở cửa, AĐ chú trọng vào việc tập trung đào tạo chất xán "cao cấp" mà không chú trọng nhiều việc phát triển công nghệ sản xuất và dịch vụ ở hạ tầng cơ sở cho nên sự phát triển không cân đối và đạt được chỉ tiêu như ý muốn so với nội lực thực sự của AĐ. Và phát triển bắt đầu tăng nhanh khi AĐ đã chuyển hướng và đẩy mạnh dịch vụ cùng đầu tư ngoại quốc. 

Những bước phát triển của Trung Cộng                 

Như đã nói ở phần trên, đi từ một khởi điểm vào năm 1980 cùng với AĐ, TC đã đi đôi hia "bảy dặm" bằng cách mở cửa giao tiếp với thế giới bên ngoài từ năm 1979 dưới thời Đặng Tiểu Bình với một phương châm bất hủ là :"Dù mèo trắng hay mèo đen cũng chẳng sao, chỉ cần biết bắt chuột là được". Trong tinh thần thực dụng trên, TC đã thành công và đưa đất nước ra khỏi tụt hậu chỉ trong một thời gian không dài. 

Ngay cả trong khi mở cửa, TC đã vận dụng được thị trường nội địa (1,3 tỷ) để đẩy mạnh kỹ nghệ sản xuất hàng tiêu dùng, điều mà AĐ đã bỏ quên trong một thời gian dài. Chính nhờ kỹ nghệ nầy mà TC đã chuyển dịch được một số lớn lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ từ 70% (1970) xuống còn 50% (2001). Cho đến hôm nay, mức đói nghèo của TC đã giảm xuống còn 16%, và mức dự trử ngoại tệ nặng của TC trong năm 2004 là 414 tỷ Mỹ kim, và cho đến năm 2013, mức dự trữ tăng lên đến 8.000 tỷ. 

Một yếu tố quan trọng trong vấn đề phát triển của TC cần phải nêu ra ở dây là lực lượng lao động. Với chính sách hạn chế sinh sản hiện tại, TC trong tương lai sẽ đối mặt với cơn khủng hoảng lao động và lao động già nua. Có lẽ vì nhận thức được điều trên cho nên quốc hội TC vào tháng 10/04 đã có đề nghị tái xét lại chính sách một con cho mỗi cặp vợ chồng ở TC. Nhưng mãi cho đến năm 2013, khi thấy nguy cớ thiếu lao động trở thành hiện thực, TC đã chuyển hướng và sửa đổi Luật sinh sản một con chỉ áp dụng cho cán bộ, và dân chúng không còn bị chi phồi vì luật nầy nữa.  Hiện tại, xã hội TC vẫn còn khoảng 600 triệu người dân sống dưới mức nghèo đói!

Nhìn chung, TC đã biết tận dụng lực lượng tiêu dùng qua thị trường nội địa để từ đó đẩy mạnh công nghệ sản xuất song hành cùng với dịch vụ. Từ sự chuyển dịch lao động nầy, TC đã giảm dần tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp; đề rồi tăng trưởng kinh tế đã thể hiện những bước nhảy vọt, và dĩ nhiên, phúc lợi cũng như lợi tức của ngưới dân được cải thiện đồng biến với sự tăng trưởng kinh tế

Năm 2003, mãi lực tính theo đầu người của TC là $5.000/năm gấp đôi so với mãi lực của Việt Nam, nghĩa là một người dân trung bình ở TC có khả năng mua sắm gấp đôi người Việt Nam. Điều nầy có nghĩa là hiệu quả kinh tế để tạo ra vật chất của một lao động Việt Nam vẫn còn quá thấp. 

Những bước phát triển của Việt Nam 

Mặc dù chính sách mở cửa và tiếp cận bên ngoài ở Việt Nam bắt đầu trước AĐ 5 năm, nhưng tiến độ phát triển ở Việt Nam vẫn còn quá chậm so với quốc gia nầy. Mặc dù AĐ đã áp dụng một số chính sách chưa hoàn chỉnh và còn một số nhược điểm trong cán cân lao động do chính sách kỳ thị thứ bậc công dân (công dân hạng nhứt và hạng hai), bảng thống kê trên vẫn cho thấy mức tăng trưởng của cả AĐ và TC tăng nhanh hơn Việt Nam trong cùng một thời gian, dù cho cả TC và AĐ phải cưu mang một số lượng nhân khẩu cao gấp 15 lần hơn. 

Nếu lấy mức lợi tức đầu người và mức tăng trưởng của năm 2004 làm chuẩn, thì trong năm 2003, mỗi người dân Việt Nam được "giàu thêm"  $32, trong lúc đó người dân AĐ và TC được hưởng thêm lần lượt là $43 và $82. Từ các con số trên chúng ta có thể hình dung được mức cách biệt ngày càng cách xa, nếu Việt Nam không có một chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế đúng đắn. 

Qua biểu đồ trên, khu vực nông nghiệp của Việt Nam trong năm 2013 chiếm khoảng 40% tổng dân số, vẫn còn quá cao cho công cuộc phát triển bền vững căn cứ theo Thuyết tam khu vực của Clark.

https://encrypted-tbn2.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcReeuRrUbxnFuLFqOqISD72TYPNZWVYa9O_YUE41-uo_u-JSFQcewViệt Nam vẫn còn 22 triệu người (theo thống kê của 2004 Việt Nam), chiếm 26,8% tổng số dân, vẫn còn sống dưới mức nghèo đói tuyệt đối, mà tuyệt đại đa số là nông dân (chiếm 63% dân số toàn quốc). Thực sự con số trên có thể còn cao hơn nữa, nếu chúng ta chịu làm một cuộc khảo sát sâu rộng ở vùng ĐBSCL, nhiều nơi, người dân chưa hề nhìn thấy được tờ giấy bạc 50.000 đồng, chứ đừng nói đến  giấy bạc 100.000 hay 500.000! Theo ước tính của World Bank cho năm 2013, con số nầy đạt gần 1/3 dân số hiện tại. Quản lý như thê nào mà cuối năm 2013 có 11 tỉnh trên 64 tỉnh toàn quốc xin cứu đói và cần 25.000 tấn gạo tức khắc? Các tỉnh gồm: Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Bình, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Kom Tum.

Trước đây, tình trạng cũng không khá gì hơn. Vào năm 2011, tỉnh Thanh Hóa, một trong những tỉnh nghèo nhưng sản xuất "cách mạng" không thua kém Nghệ An, có tới 93.283 nhà gồm 241.558 miệng ăn, thiếu lương thực, theo số liệu tổng hợp của Sở Lao Ðộng Thương Binh và Xã Hội Thanh Hóa!

 

Hiện tại và Tương lai

Theo ước tính mới nhứt về Chỉ số Mãi lực tính theo đầu người năm 2012 (Puschasing Power Parity) của Work Bank và CIA của ba quốc gia Việt Nam, Ấn Độ, và Trung Cộng lần lượt là: 3.500 US$, 3.900. và 9.100. Nếu so với chỉ số trên vào năm 2003, TC có mức tăng trưởng là 82.0%, AĐ, 34,5%, và Việt Nam 40.0%. Với tình cách thông tin, chỉ số trên trong năm 2012 đối với các quốc gia trong vùng là: Phi Luật Tân ($4.200), Thái Lan ($10.000), Mã Lai ($16.900), Đại Hàn (South Corea) ($32.400), Taiwan ($38.500), Singapore ($60.900).

Nhưng từ 2012 trở đi, TC đang bị khủng hoảng kinh tế và tài chính, và tăng trưởng phải bị chậm lại giảm từ 10% trong vòng một thập niên xuống còn dưới 7%, và tiêm đoán cho năm 2014 sẽ còn bi thảm hơn nữa. Chỉ số Quản trị mua hàng (Power Management Index) giảm từ 50% (tương đương với tăng trưởng 7% và cân bằng được lực lượng lao động) xuống còn 47,5% theo ước tính của Anh Quốc vào tháng 12/2013). Và cứ mỗi 0.1% mất đi, tương đương với 500.000 lao động thất nghiệp vì hàng tồn kho ối đọng, kéo theo các dịch vụ sản xuất nguyên liệu dùng cho thành phẩm cũng bị giảm sút hay tê liệt v.v…). Hiện tại, nợ Trung Cộng tăng nhanh trong một thời gian ngắn kỷ lục: tăng 400 % trong vỏn vẹn 4 năm. Sự ngông cuồng của các chính quyền địa phương là nguyên nhân đẩy nợ công của Trung Cộng lên cao. Kịch bản Trung Cộng vỡ nợ chỉ còn là vấn đề thời gian. Hậu quả sẽ tai hại hơn so với khủng hoảng ở Mỹ năm 2008-2009. Tích chung cả nợ của Nhà nước lẫn tư nhân, thì tỷ lệ này tăng từ 131 % năm 2008 lên thành 215 % vào năm 2013.

Trong lúc đó, Việt Nam cũng không khá gì hơn. Thị trường địa ốc hầu như tan vở, thị trường chứng khoán không còn là một đầu tư hữu hiệu nữa, kéo theo tình trạng tái chính của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ vì nợ xấu lên cao quá giới hạn cho phép, cũng như ngân hang không còn khả năng trả nợ đáo hạn nữa.

Mà nợ xấu đó là gì?

Đó chính là những khoản tiền ngân hàng bắt buộc phải bù đấp cho "những nhóm lợi ích" đầu tư vô tội vạ của những người nắm quyền lực tối thượng ngày hôm nay. Và, sức mua của người dân đã liên tục đi xuống từ năm 2011 cho đến nay.  Cho dù các  báo cáo về "thị trường đang phục hồi sức mua" của Bộ Công thương và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các siêu thị lớn nhất vẫn phải cay đắng thừa nhận sức bán của họ đã giảm đi một nửa qua từng năm. Chợ búa những ngày cận Tết vắng tanh, không khác gì những ngày thường lặng gió. Chưa bao giờ hàng đại hạ giá từ 50% đến 80% trong dịp giáp Tết Giáp Ngọ năm nay.

Ấn Độ cũng đang bị khủng hoảng tương tự trong năm 2013 trở đi, nhưng nhẹ hơn, vì khu vực dịch vụ của Ấn Độ đã phát triển và có ảnh hưởng lên thế giới bên ngoài.

Qua các phân tích ở phần trên, việc truy tìm một hướng phát triển đúng đắn cho Việt Nam trong tương lai thiết nghĩ không phải là một việc khó khăn. Từ những con số thống kê, chúng ta đã thấy những sự phân bổ lao động trong các lãnh vực phát triển không cân đối. Từ đó, bài toán đầu tiên cho phát triển là cần phải giảm tỷ lệ nông dân và tăng tỷ lệ lao động cho kỹ nghệ và dịch vụ. Tuy chưa có số thống kê riêng rẽ cho kỹ nghê và dịch vụ, nhưng quan sát các sinh hoạt thương mãi ở các thành phố lớn, chúng ta có thể hình dung được lao động trong các dịch vụ đơn giản vẫn chiếm đa số. Và dịch vụ nầy không thể so sánh được với khu vực dịch vụ mà Colin Clark đã định nghĩa. 

Việc chuyển dịch số lao động trong nông nghiệp sang kỹ nghệ sản xuất sẽ làm tăng mãi lực tạo ra của cải vật chất, từ đó lợi tức đầu người sẽ tăng theo, và theo phản ứng dây chuyền, kinh tế sẽ chuyển dịch nhanh hơn. 

Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn AĐ và TC để làm công cuộc chuyển dịch nầy. Đó là kỹ nghệ dầu hỏa. Hiện tại cán cân xuất nhập dầu thô để đổi lấy xăng, dầu và hóa chất vẫn còn là con số âm. Nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại còn phải tiêu tốn một khối lượng lớn ngoại tệ nặng cho dịch vụ nầy, chưa kể đến mức "bảo trợ" giá bán xăng dầu trong nước để tránh việc tăng giá các mặt hàng tiêu dùng và điều sau nầy có nguy cơ tạo ra khủng hoảng xã hội. Việc làm sau nầy đã khiến cho ngân sách nhà nước càng thêm thâm thủng. Và việc phải đến đã đến, là trong những tháng gần đây, chính phủ phải điều chỉnh giá xăng dầu nhiều lần, một chỉ dấu cho thấy tình trạng lạm phát sẽ xảy ra trong năm sau 2013 là điều khó tránh khỏi. 

Ngoài ra, nếu thử duyệt xét các đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam trong vòng 10 năm trở lại, chúng ta chỉ thấy hầu hết các đầu tư nầy đều có tính cách dịch vụ thương mãi và phục vụ cho một thiểu số, tầng lớp ưu đải của chế độ và du khách ngoại quốc, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam hiện tại, như xây dựng các cơ sở hạ tầng để thu hút lao động và làm tăng phúc lợi cho người dân.

Xin đan cử một vài thí dụ, với khả năng mua bán trung bình của người dân là $3.500/năm, làm thế nào một người dân Việt có thể mua được một chiếc xe hơi trị giá 4, 5 chục ngàn Mỹ kim? Trong lúc đó, hiện có trên 10 hảng xe ngoại quốc đầu tư để "lắp ráp" xe hơi tại Việt Nam. Thị trường Việt Nam chỉ có khả năng hấp thụ hàng năm khoảng 8000 đến 10.000 xe mà thôi. Do đó, kỹ nghệ ráp xe nầy không đáp ứng được nhu cầu xử dụng lao động ở Việt Nam tương xứng với vốn đầu tư cho kỹ nghệ trên.

Thêm một câu hỏi được đặt ra nơi đây là, có công ty ngoại quốc nào chú ý đến mở một nhà máy sản xuất bánh xe, tận dụng nguồn nguyên liệu cao su sẳn có của Việt Nam, thay vì phải xuất cảng cao su thô và nhập cảng bánh xe từ bên ngoài? Dường như là không?

Vì sao?

Vì các công ty ngoại quốc chỉ cần mua mũ cao su với giá rẻ, và bán thành phẩm về cao su như bánh xe và đồ gia dụng, giá đắt hơn nhiều lần!

Bước qua kỹ nghệ hóa chất và phân bón cùng các loại thuốc bảo vệ thực vật, có nhiều công ty với 100% vốn ngoại quốc, và công ty hợp doanh với doanh thương người Việt, nhưng thật sự đây không phải là những nhà máy sản xuất đúng nghĩa mà chỉ nhập cảng nguyên liệu chính từ ngoại quốc, rồi pha trộn theo tỷ lệ, cho thêm vào các chất phụ gia (chất đệm) rồi tung "thành phẩm" ra thị trường nội địa. Nếu thực hiện công đoạn sản xuất các kỹ nghệ trên với nguyên liệu đến từ các phụ phẩm từ một nhà máy lọc dầu ở nội địa, Việt Nam có thể thu hút hàng triệu công nhân lao động và có thể dự trử thêm nhiều ngoại tệ nặng dùng cho việc nhập cảng các nguyên liệu hóa chất để chế biến trên. 

Chuyển dịch lao động nông thôn thành công nhân kỹ nghệ còn là một việc làm thích hợp với chiều hướng toàn cầu hóa và cải thiện được đời sống kinh tế của nông dân. Thêm nữa, việc làm nầy sẽ hạn chế được tình trạng ô nhiễm mội trường trong không khí và trong nguồn nước, cũng như hạn chế được việc tận dụng nguồn nước ngầm, đặc biệt ở vùng ĐBSCL. Việc đẩy mạnh nông nghiệp và chăn nuôi ở vùng nầy trong 10 năm vừa qua đã làm nguồn nước ngầm ở nhiều nơi đã bị cạn kiệt, như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, nhiêù nơi mực nước ngầm xuống thấp từ 2 đến 2,5m do việc đào trên 80.000 giếng ở hai tỉnh nầy. Việc làm nầy đã làm tăng nguy cơ sụp lỡ đất cũng như việc nước biển lấn sâu vào nội địa trong mùa khô. 

Từ một vài thí dụ điển hình trên đây, về nông nghiệp và chăn nuôi, chúng ta đã thấy phát triển Việt Nam đang ở trong một tình trạng thiếu tổ chức, không đặt ưu tiên trước sau được vì không có chính sách phát triển dài hạn cho đất nước. Từ khi mở cửa, Việt Nam chỉ đặt trọng tâm vào việc làm thế nào để thu hút ngoại tệ nặng để cứu vản kinh tế đang trên đà kiệt quệ và từ đó "ăn chận tiền đầu".

Do đó, Việt Nam tận dụng bất cứ ưu tiên nào có khả năng đem ngoại tệ vào trước mắt. Để rồi từ đó, qua một thời gian, có những phản ứng phản hồi gây một số bất lợi về kinh tế và có nguy cơ tạo ra khủng hoảng xã hội rồi mới tìm phương cách giải quyết tạm thời cho qua cơn khủng hoảng. Kinh nghiệm tận dụng việc nuôi cá basa và tôm xuất khẩu từ hơn 10 năm qua, và những hệ lụy hiện có nói lên tình trạng quản lý và phát triển "vô chính sách" của Việt Nam hiện tại.

Nông dân đã phá ruộng, phá rừng để chăn nuôi hai sản phẩm vừa kể trên vì mức thu nhập rất hấp dẫn, gấp 10 lần việc trồng lúa. Nhưng chỉ vài năm sau, sau những vụ thất mùa vì ô nhiễm môi trường và thị trường bị ối động...người dân có muốn trở về tình trạng trồng lúa ban đầu thì đã muộn. 

Việt Nam đã tận dụng nông nghiệp để có ngoại tệ nặng qua việc xuất cảng trên 10 năm nay như lúa gạo, cao su, cà phê, tiêu, trà, hột điều, tôm, cá.v.v... mà không "nhìn" thấy những ưu tiên khác trong tiến trình phát triển dựa theo thuyết tam khu vực; do đó, một số ưu tiên khác để phát triển qua các ngành "cao cấp" hơn đều bị "bỏ quên". Điều nầy thể hiện một não trạng đã đóng băng trong tiến trình phát triển ở thế kỷ 21 nầy. 

Bước qua ưu tiên hai của thuyết tam khu vực là tiến trình sản xuất do kỹ nghệ, Việt Nam đã thể hiện qúa nhiều cố gắng để kêu gọi đầu tư ngoại quốc, đối lại đối tác trong nước chỉ là các công ty quốc doanh, không có nguồn vốn, chỉ đem mặt bằng (đất của quốc gia) ra thế chấp thay nguồn vốn ban đầu. Từ đó, sự khai thác, sản xuất phần lớn đều lệ thuộc vào tư bản ngoại quốc. Và hậu quả tất nhiên là ngoại quốc khống chế thị trường tiêu thụ hoàn toàn sau khi sản xuất. Đây là một điểm bất lợi lớn trong phát triển. Việt Nam đã mở mà không chịu mở thật sự (vì luôn luôn mang niềm lo sợ bị khuynh đảo(!)) để cho tư nhân nội địa có cơ hội mang nguồn vốn vào làm đối tác ngang hàng với ngoại quốc. 

Nếu tình trạng phát triển ở giai đoạn nầy tiếp tục, thì về lâu về dài chúng ta sẽ thấy rõ những gì sẽ xảy ra: nguồn tài nguyên của đất nước sẽ bị cạn kiệt vì bị khai thác quá độ mà Đất và Nước không hưởng được do các thành quả của việc khai thác trên. Phát triển kinh tế trong thời bình gần 30 năm sau khi mở cửa, chúng ta đã thấy được gì ngoài những hình ảnh "thật sự" "phồn vinh giả tạo" mà chế độ đã từng gán cho Việt Nam thời trước 1975. 

Kết luận

Qua các phân tích trên đây, một giải pháp giản dị trước mắt để tháo gở khó khăn kinh tế và chuyển dịch lao động trong nông nghiệp được đề nghị là công nghệ hóa dầu trong điều kiện hiện có của Việt Nam. Đây sẽ là một giải pháp tối ưu hiện tại để từ đó Việt Nam có thể bước những bước vững chắc hướng về tương lai.

Đó là việc xây dựng nhà máy lọc dầu và chế biến các sản phẩm hóa chất qua những phụ chất từ công cuộc hóa dầu nầy. Để rồi từ đó, Việt Nam có thể tự túc qua kỹ nghệ phân bón, thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc và một số hóa chất căn bản trong kỹ nghệ.

Dự án khai thác và xây dựng nhà máy lọc dầu  Dung Quốc ở Quảng Ngãi cho đến hôm nay, 2014, đã tiêu tốn trên 4 tỷ Mỹ kim, mà việc sản xuất vẫn chưa hoàn chỉnh, phải đình trệ nhiều lần qua một thời gian dài, cũng như không thể nào hoạt động hết công suất, chỉ chạy được tối đa là 30 – 40% mà thôi; cũng như các công nghệ biến chế các phó phẩm hóa dầu cũng không được khai thác. Từ đó, một công nghệ vốn dĩ đem lại nhiều nguồn lợi cho kinh tế quốc gia, trái lại phải chịu bù lỗ triền miên, làm sao con tàu Việt Nam có khả năng cất cánh được.   

Nhìn lại kinh nghiệm và hai bài học về phát triển kinh tế của TC và AĐ, chúng ta nhận thấy, phát triển Việt Nam đúng hướng không phải là một việc không thể thực hiện được. 

Việt Nam cần có tầm nhìn toàn cầu, ứng hợp với chiều hướng phát triển chung của thế giới, chấp nhận luật chơi chung, và quan trọng hơn cả là cần phải xóa bỏ não trạng "độc tôn và duy ngã"  và cơ chế chuyên chính vô sản trong tư thế lãnh đạo đất nước. 

Và phát triển cần phải có một kế hoạch dài hạn có tầm vóc quốc gia, chứ không phải cung cách "làm ăn" theo địa phương hoặc từng khu vực giống như hình thức trăm hoa đua nở như hiện nay chỉ nhằm phục vụ cho các nhóm lợi ích và nhóm quyền lực mà thôi

Có được như vậy, Việt Nam mới mong có cơ may cất bước đi tới được. 

Mai Thanh Truyết

Tết Giáp Ngọ 2014

 

 _____________________
 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-

"Behold I do not give lectures or a little charity; When I give I give myself".Walt Whitman

 
 

 

 

 
 
 
 
//////////////////////////////////////////////////