Fwd: Phế Thải Y Tế Ở Việt Nam


                                                                                          

Phế Thải Y Tế Việt Nam


 

 

 Hầu hết chúng ta đu biết tình trạng môi trưng Việt Nam hiện tại đang xấu đi ngày càng trầm trọng, hậu quả của việc sn xuất ca cải vật chất cho hội mà không chú trọng đúng mức đến việc bảo vệ mội trưng từ khi Việt Nam bắt đầu mở ca ra thế gii bên ngoài từ năm 1986 trở đi. Có khoảng 160.000 tấn/năm (1%) chất thải của Việt Nam được coi là nguy hiểm, bao gồm cả chất thải y tế nguy hại từ các bệnh viện, chất thải độc hại hoặc dễ cháy từ các quá trình công nghiệp, và thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ.

Một
​ 
trong những nguyên nhân gây nên tình trạng trên các nguồn phế thải rắn. Có bốn loại phế thải rắn:

          Phế thải từ các công nghệ sản xuất gọi là phế thải k nghệ;

          Phế thải từ rác từ các hộ gia đình gọi là phế thải sinh hoạt;

          sau cùng phế thải y tế tất c các loại rác phát sinh từ những dịch v y tế trong bịnh viện các trung tâm y tế trên toàn quc;

          Sau cùng phế thải điện tử gồm đ loại máy vi tính, truyền hình, điện thoại, máy in v.v…

Baì viết nầy có mục đích trình bày các loại phế thải y tế Việt Nam và một s nhn đnh v tình trng trên cùng một vài đ nghị giải quyết một vấn đề không kém quan trọng hiện đang xảy ra ở Việt Nam.

Đnh nghĩa và thành phần của chất thải y tế

 Chất thải y tế còn gọi chất thải bịnh viện những chất phế thải từ bịnh viện qua những dịch v y tế như cha trị, mổ xẻ, thử nghiệm. Đại để, đó là những quần áo bịnh nhân y ng, bác sĩ sau khi chữa trị có dính máu chất thải ca ni bịnh, cũng như vi khun, các bộ phận của con ngưi bị tách rời, hóa chất, thuốc men cùng dng c dùng trong các sinh hoạt trên.
Do đó, phế thải y tế rất d bị lây nhiễm có nguy cơ nh ng lên sc khỏe con ngưi sống trong môi trưng bịnh viện, nếu không được x lý thích đáng. Thông thường theo ước tính trong 4Kg phế thải y tế 1Kg phế thải đã bị nhiễm vi khun nguy hiểm. So vi các loại chất thải khác như chất thải rn trong kỹ nghệ và phế thải gia cư, đây một loại phế thải độc hại hơn c vì phế thải y tế có thể trực tiếp ảnh hưởng tức khắc lên sức khỏe của con người, và hơn nữa có thể có nguy cơ tạo ra bịnh dịch qua sự lây nhiễm trên một vùng dân cư rộng lớn. Còn tính đc hại của hai loại phế thải gia cư k nghệ có tính cách lâu dài n khó nhận din trưc mắt.


Cung cách giải quyết hay thanh lọc loại phế thải y tế trên thế giới

 

Hiện tại, trên thế gii hầu hết các quốc gia k nghệ, trong các bịnh viện, cơ sở săn sóc sức khỏe, hay những công ty đặc biệt xử phế thải đều thiết lập hệ thống xử loại phế thải nầy. Đó các đốt (incinerators) nhiệt độ cao tùy theo loại phế thải từ 1.000oC đến trên 4.000oC. Tuy nhiên phương pháp nầy hiện nay vẫn còn đang được tranh cãi về việc thanh lọc khí và bụi đã được thải hồi vào không khí sau khi đốt.

Các phế thải y tế trong khi đốt, thải hồi vào không khí nhiều hạt bụi li ti và các hóa chất độc hại phát sinh ra do quá trình thiêu đốt như: acid cloridric, dioxin/furan, một s kim loại độc hại như thủy ngân, chì, hoặc arsenic, cadmium. Do đó, tại Hoa Kỳ từ năm 1996, đã bắt đầu các điều luật về khí thải của đốt nghiêm khắc hơn ng khí thải hồi phải được giảm thiểu bằng những hệ thống lọc hóa học học tùy theo loại phế thải. Cũng như các hạt bụi phóng thích sau khi đốt đường kính phải nhỏ hơn 8 micrometer (PM8).

Ngoài ra còn có phương pháp khác đ giải quyết vấn đề nầy đã đưc các quốc gia lưu tâm đến vì phương pháp đốt đã gây ra nhiu bt li vì lưng k đc hại phát sinh thải vào không khí; do đó các nhà khoa hc hiện đang áp dụng một phương pháp mi. Đó phương pháp nghiền nát chất phế thải và thanh lọc dưới nhiệt đ áp sut cao để tránh việc phóng thích khí thải trong khi x lý.

Dựa theo phương pháp nầy, phế thải bịnh viện đưc chuyển qua một máy nghiền nát. Phế thải đã đưc nghin xong sẽ đưc chuyển qua một phòng hơi có nhiệt độ 138oC và áp suất 3,8bar. Điu kiện nhiệt độ và áp suất trên điều kin tối ưu cho hơi c bảo hòa. Phế thải được thanh lọc trong ng 40 đến 60 phút. Sau ng phế thải rắn đã s đưc chuyển đến các bãi rác thông thưng vì đã đạt đưc tiêu chuẩn tiệt trùng. Phương pháp nầy có thêm lợi điểm là làm giảm được khối lượng phế thải vì đưc nghiền nát, chi phí ít tốn kém hơn đốt, cũng như không tạo ra k thải vào không khí.

 

Phế thải y tế ở các nước đang phát triển


1-    Phế thải rắn: Đối vi c quốc gia đang phát trin, vic quản lý môi trưng chung vẫn còn rất lơ là, nhất là đối với phế thải bịnh viện. Tuy nhiên trong khoảng 5 năm trở lại đây, các quốc gia như Ấn Đ Trung Cộng đã bắt đầu chú ý đến vic bảo v môi trưng, nhiều tiến b trong việc xây dựng các lò đốt bịnh viện.

Đc biệt ở n Độ t năm 1998, chính ph đã ban hành Luật v "Phế thải y tế: Lập thủ tục và Qun ". Trong bộ luật nầy có ghi rõ ràng phương pháp tiếp nhn phế thải, phân loại phế thải, cùng vic x và di dời đến các bãi rác. . Do vy, vấn đề phế phải độc hại của quốc gia nầy đã đưc cải thiện rất nhiều.

Trong lúc đó Việt Nam, mc dù đã ban hành Luật v Qun lý Phế thải Y tế t năm 1999, nhưng cho đến nay vẫn chưa đặt mối quan tâm đúng mức v vấn đ nầy, ngay c đối vi rác gia rác kỹ nghệ. Hà Nội có 36 bịnh viện mà chỉ có một bịnh vin đốt. Tp Sài Gòn cũng chng khá hơn, chỉ 3 đốt cho trên 100 bịnh viện trong thành phố. Đối vi các tỉnh, thị còn lại, thiết nghĩ cũng không bịnh viện nào có trang bị lò đốt cả.

Tại Sài Gòn, hầu hết các bịnh viện trong thành ph chỉ trách nhiệm thu gom, pn loại, kiểm soát chuyển tải rác y tế v nhà rác; còn vấn đề vận chuyển rác đi đâu, x như thế nào thì giao cho quan quản lý môi trưng. Chính s quản lý còn lỏng lẻo mà tình trạng rác y tế ngày càng tệ hại hơn.

Đối với Tp Sài Gòn, đây là thành phố có số lượng bịnh nhân ln nhất, trung bình hàng tháng có thể thải ra hơn 7 tấn rác y tế gồm kim và ng chích, bông băng, dao mổ, các ống plactic chuyền ớc biển hay thuc men v.v... Tất c đưc thu gom vào các thùng nhựa, có ghi số riêng và đưc chuyển xuống nhà rác. Sau đó là việc ca Cty Quản lý Môi trưng, bnh viện hoàn toàn không còn chu trách nhim việc x lý! Do đó, Cty Môi trưng chuyển rác đi đâu, x như thế nào thì không ai đưc cả! Cũng không quên nói thêm thành ph còn có hàng ngàn văn phòng khám bịnh chữa trị do các bác hành nghề, và vấn đề thu gom rác y tế hoàn toàn không được nêu lên. Đây cũng một số lưng rác không nhỏ, gây thêm nguy cơ cho rt nhiều mầm bịnh.

Riêng tại thủ đô Nội, vấn đề quản lý còn tồi tệ hơn nữa, nhiều tệ trạng mi vừa được nêu ra trên báo chí truyền thanh gần đây nói lên s bất lực của những nhà chịu trách nhiệm trong lãnh vc nầy. Điển hình trường hp bịnh viện Việt Đc. Trong nhiều năm qua, bịnh viện đã ký hợp đng vi Xí nghiệp Xử lý cht thải công nghiệp Y tế thuộc Cty Môi trưng Hà Nội vận chuyển x rác y tế. Tuy nhiên không ai quản lý địa hạt x lý, cho nên Cty trên đã bán lại các loi rác có thể tái sinh thay phải x lý. Điu nầy cũng xảy ra cho bnh viện Bch Mai và một s bnh viện khác tuy chưa đưc khám phá ra. Ngay chính Đài Radio ABC ở Úc châu trong buổi phát thanh ngày 29/8/2007 nêu tin tức gần 300 tấn rác y tế Việt Nam các bnh viện Nội đã được tái sản xut thành các dụng cụ dùng trong kỹ nghệ ăn uống như muỗng nĩa, dao nhựa, các loại ly chén nha, các thùng chứa bằng nhựa v.v

2-    Phế thải y tế lỏng: Ngoài phế thải rắn va kể trên, cũng cần nên nhắc đến một lượng c thải y tế quan trọng. Từ trên 1.000 bịnh viện trên toàn quốc hiện tại, theo thống của Việt Nam hiện chỉ có 1/3 h thng x nước thải, đc biệt là ở trung ương và các thành thị ln. Tuy nhiên trong số trên chỉ một phần nh đạt đưc tiêu chuẩn môi trưng. Nhiu nơi, cũng như không h thống không đưc bảo hành sau đó bỏ không vi lý do không có kinh phí cho tiền điện và hóa chất cùng nhân viên điều hành

nhiều bịnh viện ln thành phố, nước thải chỉ qua bồn chứa rồi chảy thẳng vào sông rạch.

Thí dụ n bịnh viện Việt Đức, cơ s ngoại khoa ln nhất nước, thực hiện hàng chục ngàn ca mổ mỗi năm vẫn chưa có nhà máy xử lý nưc thải đúng tiêu chun. Sài gòn còn trên 35 bịnh viện chưa hệ thống x nước thải 40 bịnh viện hệ thng không đạt tiêu chuẩn theo thống kê 2007.

Theo Sở Tài nguyên & Môi trưng Nội, trong s 400 ngàn m3 c thải đổ vào sông Nhuệ, sông Đáy mỗi ngày, độ khoảng phân nửa là nưc thải bnh viện. Từ đây cho thấy mầm bịnh trên các ng rạch chng chịt Việt Nam đang bị ô nhim như thế nào vì các mm bịnh sinh hc, thm chí c phóng xạ,  virus đưng tiêu hóa, bại lit, ký sinh trùng, liên cu, tụ cầu, Salmonella v.v…

Thêm nữa, những mầm bịnh nầy chu du khp nơi, xâm nhập vào các loại thủy sản, cây trồng, nhất các thy thực vật như rau muống chng hạn. T đó, con ngưi sau khi tiếp nhim vi các mầm bịnh trên qua dây chuyn thc phẩm, nguy cơ ung thư và các bịnh hiểm nghèo khác sẽ tăng rất nhanh. Đối lại, Sài Gòn cũng không khá hơn vi trên 17 ngàn m³ nưc thải y tế lỏng thải vào sông rạch hàng ngày.

Từ những thông tin nêu trên đây, chúng ta nhn thức đưc tình trng rác y tế ở Việt Nam đã đưc quản lý tồi tệ cũng như các viễn kiến để giải quyết vấn đề hầu như không đưc những ngưi đang nm quyền lc lưu ý đến.

Cung cách giải quyết rác thải y tế của Việt Nam hiện tại


Từ năm 2007, Bộ Y tế đã đưa ra kế hoạch thu thập tất cả các chất thải y tế mỗi ngày, với 70 phần trăm của chất thải rắn, và sẽ được "xử lý" vào năm 2015, theo một nguồn tin từ Cục Quản lý Môi trường Y tế. Nhưng năm 2015 đã qua, và năm 2016 đã bước vào nửa năm cuối mà tình trạng ngày càng tệ hại hơn so với năm 2007!

Trong những năm gần đây, dịch tả và cúm A H1N1 đã xuất hiện trở lại, hầu hết trong số nạn nhân là do ô nhiễm môi trường, đặc biệt là cung cách điều trị không đúng cách cũng như chất thải y tế còn tồn đọng trong phạm vi các bịnh viện và ở cả các bãi rác lộ thiện hiện diện khắp nơi trong nước.

Ts Nguyễn Huy Nga cho biết "Việt Nam đã có hơn 13.600 bệnh viện và cơ sở y tế, trong đó chỉ có 44 phần trăm đã có hệ thống "xử lý" nước thải y tế".

Ngoài ra, hầu hết các hệ thống thanh lọc nước thải y tế tại các bệnh viện hoặc bị quá tải hoặc trong hình dạng không xử dụng được, cũng như cung cách thanh lọc không đáp ứng được yêu cầu và tiêu chuẩn đã đề ra trong Bộ luật Môi trường.

Kết quả là, hầu hết chất thải bịnh viện dù có qua thanh lọc hay không đều được xả thải trực tiếp vào môi trường.

Nước thải y tế thường có chứa khoảng 20 phần trăm các chất độc hại có thể gây bệnh nếu không được thanh lọc đúng cách.

Cũng theo lời của Ts Nga "Các cơ sở y tế mỗi ngày xả khoảng 120.000 và 150.000 mét khối nước thải và khoảng 350 và 400 tấn chất thải y tế, trong đó có 42 tấn chất thải độc hại." (Theo thống kê năm 2007).

"Năm 2015, lượng nước thải ý tế lỏng và rắn đã tăng gấp đôi, nhưng tình trạng của các nhà máy thanh lọc vẫn không được cải thiện thêm chút nào, người lại còn rất nhiều nhà máy đị hư hỏng và Giám đốc của nhiều bệnh viện địa phương cho biết rằng họ thừa nhận tầm quan trọng của chất thải và xử lý nước thải nhưng không có đủ kinh phí để xây dựng và lắp đặt thiết bị này".

Chỉ có Hà Nội và Tp Sài Gòn có lò đốt rác y tế, trong khi ở các bịnh viện và cơ sở y tế địa phương, việc thanh lọc chất thải y tế rắn bằng cách chôn sâu dưới đất cùng với rác thải sinh hoạt; cũng như chất thải lỏng ….được đổ thẳng vào các mương rạch trong vùng…

Đề ngh hướng giải quyết

Cho đến hiện nay, chưa thấy có chỉ dấu nào của Việt Nam về việc cải thiện tình trạng quản lý các nguồn rác nói chung, và phế thải y tế nói riêng. Các loại phế thải rắn và lỏng là hai vấn nạn môi trường quan trọng nhất hiện tại mà Việt Nam phải đối mặt và giải quyết một cách rốt ráo. Nếu Việt Nam không chịu thay đổi cung cách hành xử, e rằng Việt Nam sẽ phải chịu một cơn khủng hoảng môi trường nghiêm trọng trong một tương lai rất gần.

Tình trạnh chung trên 64 tỉnh toàn quốc vẫn xảy ra nhiều trường hợp cảnh trống đánh xuôi kèn thổi ngược, nghĩa là luật đi đường luật, lệ…đi đường lệ! Tình trạng nầy càng tệ hại hơn nữa ở hai nơi cần phải được giữ gìn hơn cả là ở Hà Nội và Sài Gòn, vì hai nơi nầy là hai trung tâm tiếp cận với ngoại quốc nhiều nhất và đông dân nhất so với các tỉnh khác.


Do đó, đứng trưc tình trạng cấp bách v việc thanh lọc phế thải y tế, cũng như khả năng tài chính ca các bnh viện không thể nào trang trải cho chi phí thiết lập một lò đốt, một s phương cách giải quyết trưc mắt đ thể điều chnh và hạn chế đưc chất thải nầy. Tuy nhiên, vấn đề chỉ có thể giải quyết tng bưc một khi có sự tham gia của n cầm quyền hiện tại:

·         Đối vi các bịnh viện bnh nhân dễ b nhiễm trùng truyền nhiễm cao như các bịnh viện nhiệt đi, nhà bảo sinh, nhà nước bắt buc bng giá nào cũng phải xây đốt càng sm càng tốt. Thêm na cn phải tăng cưng kiểm soát việc quản lý các lò đốt của bnh viện. việc làm cấp yếu tức thời đối với những bnh viện còn lại phải hạn chế chất thải y tế tối đa.

·         các quốc gia k nghệ, song hành vi vic thanh lọc phế thải, Cơ quan Bảo vệ môi trưng s tại tng thiết lập chính sách khen thưng bằng cách giảm thuế cho cơ s sản xuất nào áp dụng chương trình giảm thiểu phế thải. Mc độ khen thưởng tùy theo điều kiện và mức độ đc hại cho mỗi quy trình.

Trong trưng hp chất thải y tế, sau đây một sgi ý về phương cách để làm giảm thiểu chất thải:

·         Trước hết, trong bịnh viện không nên sử dụng bao tay, áo choàng, khăn trải v.v… bằng chất dẻo nhân tạo như PVC, phải thay thế các dụng cụ trên bằng cao su thiên nhiên (latex).

·         Thủy ngân trong các hỗn hp kim loi dùng trong việc trám răng, trồng răng, cũng như Chì (Pb) dùng làm điện cực của pin trong các hệ thống theo dõi nạn nhân bị bịnh tim v.v… sẽ đưc tái s dụng bằng phương pháp tái sinh hóa hc.

·         Một s trang phc và hệ thống hấp trong png mổ thể đưc tiệt trùng và dùng lại nhiu lần.

·         Các dung môi thông thưng trong bnh viện như benzen, toluene, xylene có th đưc sử dụng lại qua hệ thống chưng cất phân đoạn.

Tóm lại, bnh viện có thể s dng lại tất cả nhng dng cụ, hóa chất nào có thể tái sinh đưc và làm đúng theo quy đnh van toàn y tế.

Ngoài ra, còn rất nhiều pơng cách để giảm thiu phế thải y tế tùy theo mức độ

chuyên ngành của bịnh vin.

 

Nếu làm được một s vic căn bn đan c trên đây, chúng ta đã hn chế đưc một phần nào tình trạng ô nhiễm, giảm thiểu lưng chất thải và mức độ độc hại của chúng, nht giảm thiểu đưc chi p điều hành.

Sau hết, vi s tham gia đúng mức ca các thành phần nhân s trong bịnh viện từ nhân viên quản đến nhân viên y tế, cùng bịnh nhân… sẽ chng minh được mức độ thành công ca chương trình giảm thiu chất thải nói chung, và chất thải y tế nói riêng.

Mai Thanh Truyết

Hi Khoa hc & K thut Vit Nam ti Hoa Kỳ (VAST)

Tháng by, 2016 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


//////////////////////////////////////////////////