Mô hình Phát triển Ấn Độ

Ấn Độ: Mô Hình Phát Triển Mới Cho Việt Nam

 

 

Việt Nam nằm giữa hai anh khổng lồ cả về dân số lẫn đất đai, một ở Đông Á, và một Nam Á. Đó là Trung Quốc và Ấn Độ. Trong quá trình lịch sử, Việt Nam đã chịu quá nhiều ảnh hưởng từ hai quốc gia kể trên về tôn giáo, triết học, văn hóa, đời sống và cấu trúc xã hội. Dĩ nhiên, vấn đề phát triển quốc gia cũng không nằm ngoài hai ảnh hưởng trên. Từ đó, tầm nhìn từ phía bên ngoài cũng như não trạng tiếp cận với các quốc gia Tây phương của ba quốc gia nầy có nhiều điểm tương đồng cần phải lưu tâm.

 

Dù mỗi quốc gia chịu sự chi phối và quản trị dưới một chính thể chính trị khác nhau, nhưng khi quan niệm sống còn trong cộng đồng thế giới đã thôi thúc lãnh đạo của từng nước phải biết tiếp cận ra ngoài, và phải mở cửa để đi vào dòng chính của tiến trình toàn cầu hóa. Từ quan niệm trên, Việt Nam đã mở cửa vào năm 1986, và  Ấn Độ (AĐ), 1990.

 

Tuy thời gian mở cửa và hội nhập khác nhau, nhưng qua những đặc thù của từng quốc gia, cùng cung cách tiếp cận với thế giới bên ngoài, chúng ta có thể hình dung được mô hình phát triển nào tương đối đem lại nhiều phúc lợi hơn cho người dân. Thêm một lý do nữa để mang hai quốc gia trên so sánh là cả hai từ nguyên thủy đã phát xuất từ nông nghiệp làm căn bản và mức tăng trưởng đều đặn trong chu kỳ 10 năm trở lại đây.

 

So sánh về một số dữ kiện xã hội, kinh tế, dân số, lao động, và phát triển cùng lợi tức của người dân dưới đây cho chúng ta thấy mức độ phát triển của từng quốc gia một, để từ đó hy vọng rút tỉa ra được con đường mà Việt Nam sẽ phải đi để tránh khỏi tụt hậu phía sau. Tụt hậu không phải vì kém tri thức, không phải vì thiếu tài nguyên, không phải vì khác điều kiện tiếp cận với thế giới bên ngoài cùng các công nghệ tiên tiến mới. Mà tụt hậu là vì có một chính sách phát triển không thích hợp với thời đại mới: thời đại của thông tin trên mạng lưới.

 

Bài viết nầy đặt trọng tâm vào cung cách phát triển của Ấn Độ trong vòng 10 năm trở lại đây và những chính sách dự kiến phát triển quốc gia cho tương lai. Từ đó có thể cho chúng ta thấy một số khơi mở của Ấn Độ trên cái nhìn tổng thể về toàn bộ vấn đề xã hội đặc thù và phương cách giải quyết song hành với việc phát triển.

 

Định mức sự phát triển quốc gia cho đến nay vẫn còn căn cứ vào thuyết "tam khu" của Colin Clark, trong đó gồm khu nông nghiệp, khu công nghiệp, và khu dịch vụ. Từ đó qua sự phát triển, và qua từng giai đoạn, chỉ số phát triển của một quốc gia được tính toán qua tỷ lệ của từng khu vực.

 

Tiến trình phát triển quốc gia nói chung được ghi nhận vào các giai đoạn sau đây: 1- Trước hết từ nguyên thủy, Ấn Độ chọn nông nghiệp làm chính cho giai đoạn ban đầu; 2- Khi mức sản xuất nông nghiệp đáp ứng được cán cân cung cầu trong nước, từ đấy sẽ đẩy mạnh công nghiệp sản xuất; 3- Và sau giai đoạn công nghiệp, dịch vụ sẽ là trọng tâm trong phát triển. Do đó, đối với một quốc gia một khi tỷ lệ dịch vụ và công nghiệp sản xuất càng cao, sự phát triển của quốc gia đó càng tăng thêm mức bền vững và giảm thiểu được nguy cơ khủng hoảng.

 

Những dữ kiện về Ấn Độ

 

Từ thời đại Đồ Đá, trên đất nước Ấn Độ hiện tại đã thấy có dấu vết của con người vào khoảng 9000 năm trước đây. Vào 550 (trước Thiên chúa), đã xuất hiện nhiều đấc chế độc lập có tên là Mahajanapadas trên dảy đất Nam Á nầy. Từ thế kỷ 16, Ấn Độ bị xâu xé bởi các quốc qia Tây phương và sau cùng chịu sự kiểm soát của Anh Quốc.

 

Vào thế kỷ 20, phong trào dành độc lập khởi động dưới sự lãnh đạo của Mahatma Gandhi, một lãnh tự chủ xướng bất bạo động. Và ngày 15 tháng 8 năm 1947, người Anh phải trả lại độc lập cho Ấn Độ và quốc gia nầy trở thành một nước cộng hòa ngày 26/1/1950.

 

Diện tích: 3.287.590 km2 (bằng 1/3 diện tích Hoa Kỳ).

Dân số:     1.166.079.217 (2009); mức tăng trưởng 1,5%/năm; mức sinh sản 21.7/1.000; tử xuất 57/1000; tuổi thọ trung bình 69.8; mật độ dân số 386/km2.

 

Mức phát triển tăng trưởng: từ 2001 – 2008, 9%, 2009, 7.1%.

 

Tỳ lệ dân số tiếp nhận nguồn nước sinh hoạt: 89%;

Tỷ lệ dân số có nhà vệ sinh: 33%

 

Lợi tức đầu người (GDP): hạng 139/178 với $1.033 (IMF – 2009), hay 131/170 với $1.068 (WB 2008). So với Việt Nam: 137/178 với $1.052 (IMF-2009), hay 132/170 với $1.052 (WB – 2008).

 

Ngân sách quốc gia: 55 ngàn tỷ Rupees (2008-2009) (1US$ = 44 Rupees)

 

 

Nhìn chung, mức tăng trưởng của của Việt Nam và Ấn Độ trong 10 năm trở lại đây đã đứng đầu trong vùng Á Châu, Việt Nam (chỉ sau Trung Cộng) với mức tăng trưởng trung bình là 7%. Nếu so sánh với mức lạm phát, mức tăng trưởng thực sự của Việt Nam và Ấn Độ sẽ là 4,1%, và 4,5% (mức tăng trưởng trừ đi mức lạm phát). Do đó, cả Việt Nam và Ấn Độ đều có mức tăng trưởng ngang nhau và cũng có lợi tức đầu người tương đương dù dân số Ấn Độ cao gấp 14 lần dân số Việt Nam.

 

Tỷ lệ sinh sản của cả hai quốc gia nầy còn cao, do đó, theo ước tính vào năm 2025, AĐ sẽ qua mặt TC với 1,5 tỷ, và Việt Nam sẽ đạt đến mức 120 triệu nhân khẩu.

 

Lợi tức và Mãi lực của người dân

 

Vào năm 1980, lợi tức đầu người của Việt Nam là $180, AĐ  $280/năm. Nhưng cho đến năm 2004, lợi tức AĐ, $520, trong lúc đó lợi tức của Việt Nam là $450. Tỷ lệ tăng trưởng theo lợi tức trong khoảng thời gian nầy là  2,9, và 2,5 lần cho AĐ và Việt Nam.

 

Dĩ nhiên Việt Nam vẫn còn chậm bước dù đã mở cửa trước AĐ gần 5 năm.

Bài viết có mục đích truy tìm cách lý giải tại sao Việt Nam vẫn còn chậm bước mặc dù có những điều kiện không khác biệt so với quốc gia đông dân trên.

 

Những bước phát triển của Ấn Độ

 

Từ những năm đầu của thập niên 80, AĐ bắt đầu gữi sinh viên ồ ạt qua các nước Tây phương đặc biệt là Anh Quốc và Hoa Kỳ, và có thể nói cho đến ngày nay, AĐ đã dành địa vị độc tôn ở Á Châu về việc cung cấp dịch vụ và công nhân chuyên nghiệp cho Tây phương. Thung lũng về điện tử ở vùng San Jose (California) từ năm 2001 trở đi bị khốn đốn vì hàng trăm ngàn chuyên viên cao cấp trong ngành nầy đã đồng loạt trở về AĐ. Dĩ nhiên, AĐ trở thành trung tâm cung cấp dịchvụ điện toán cho toàn cầu. Năm 2008, AĐ có khả năng cung cấp 4 triệu công nhân loại nầy cho thế giới. Và chính mức tăng trưởng của AĐ đã góp phần lớn vào dịch vụ điện toán trên.

 

Trước khi bắt đầu mở cửa năm 1990, AĐ vẫn còn đeo đuổi chính sách "tự quản" "tự túc", nghĩa là cố gắng tạo đủ sản phẩm vật chất để xử dụng cho nội địa. Do chính sách phát triển khép kín trên đã làm chùng bước mọi ý muốn đầu tư của những nhà đầu tư ngoại quốc. Do đó công nghiệp sản xuất của AĐ không thể nào phát triển và theo kịp đà tiến bộ chung trên thế giới.

 

Mặc dù AĐ có nhiều lợi thế khi chuyển sinh viên và chuyên viên ra ngoại quốc vì họ thông thạo Anh ngữ, nhưng AĐ chỉ đẩy mạnh vai trò dịch vụ và tin học mà không phát triển các công kỹ nghệ sản xuất các mặt hàng gia dụng. Trong lúc đó nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong cán cân sản xuất. Điều nầy tạo ra hai giai cấp bất bình đẳng trong xã hội: AĐ có 7% dân số có trình độ Tiến sĩ và 42% dân số không biết chữ.

 

Nhưng từ khi có chính sách đổi mới, mọi sự bắt đầu thay đổi, luật đầu tư giản dị hơn, chính sách thuế quan có phần dễ dãi và giảm bớt phiền toái cho thương nhân ngoại quốc...và đó là hai điều kiện đầu tiên để thu hút đầu tư. Và cũng từ đó, nạn chợ đen và tham nhũng cũng giảm dần theo mức độ du nhập của ngoại quốc vào chính quốc gia nầy. Và cũng từ mốc thời gian trên, các công ty đa quốc gia ồ ạt chiếm lĩnh thị trường và hôm nay, thủ phủ Karnataka ở phía Nam AĐ trở thành một thung lũng silicon mới của Á Châu, có thể nói nơi đây là một trung tâm điện tóan có dịch vụ trên toàn thế giới hiện nay.

 

Đồng thời với đầu tư ngoại quốc, AĐ đã đẩy mạnh cuộc cách mạng xanh trong kỹ nghệ sản xuất, với mục đích làm giảm thiểu việc ô nhiễm môi trường, và sau nữa dần dần đẩy lui nạn đói nghèo qua chính sách mở cửa tiếp cận với hầu hết các quốc gia trên thế giới để áp dụng việc đẩy mạnh công nghệ tiên tiến cho nhu cầu trong nước. Đây là một chính sách thật sự mềm dẽo, và là một bài học cho những quốc gia còn mang nhiều định kiến về ý thức hệ chính trị trong giao thương kinh tế và phát triển.

 

Kết quả, sau 20 năm đổi mới AĐ có mức dự trử ngoại tệ nặng cho năm 2008 là 800 tỷ Mỹ kim. Tuy nhiên với mức lợi tức đầu người cho năm 2004 là $520 và mãi lực tính theo đầu người là $2.900/năm, 35% dân số AĐ vẫn phải chịu sống dưới mức đói nghèo tuyệt đối theo định nghĩa của LHQ là $1/ngày/người. Do đó, AĐ cần phải đẩy mạnh hơn nữa về kỹ nghệ sản xuất và dịch vụ để thu hút lực lượng lao động cho nông nghiệp hiện đang chiếm tỷ lệ 60% trên cả nước.

Một bế tắc chung cho các quốc gia đang phát triển là vì không phát triển đồng bộ tử thành thị đến nông thôn, hay vì sự thành thị hóa nông thôn còn quá chậm, cho nên mức cách biệt giữa giàu và nghèo càng cách xa. Sau 20 năm đổi mới, mức chêng lệch giàu nghèo của dân chúng ở các thành phố và nông thôn càng cách xa hơn gấp nhiều lần.

 

Nhìn chung, trong thời gian đầu khi mở cửa, AĐ chú trọng vào việc tập trung đào tạo chất xán "cao cấp" mà không chú trọng nhiều việc phát triển công nghệ sản xuất và dịch vụ ở hạ tầng cơ sở cho nên sự phát triển không cân đối và đạt được chỉ tiêu như ý muốn so với nội lực thực sự của AĐ. Và phát triển bắt đầu tăng nhanh khi AĐ đã chuyển hướng và đẩy mạnh dịch vụ cùng đầu tư ngoại quốc.

 

Triển vọng tương lai

 

Từ những khuyết điểm do phát triển gây nên sau 20 năm, chính sách phát triển của Ấn Độ đặt trọng tâm vào việc giải quyết các vấn đề xã hội và dân sinh cùng việc bảo vệ môi trường để nhìn về triển vọng tương lai. Đó là:

 

-       Khai mở nhiều công ty nhỏ và trung bình ở vùng nông thôn hay các thành phố chậm phát triển;

-       Cải thiện nông nghiệp trong đó ảnh hưởng đến 2/3 dân số bằng cách hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, phân bón và thuốc trừ sâu rầy. Điều nầy làm tăng lợi tức nông dân lên đến 4,7% trong những năm gần đây;

-       Chính phủ trung ương cải thiện một số phúc lợi cho nông dân qua các chương trình Liên Hiệp Quốc giúp đở về y tế, giáo dục, vệ sinh công cộng…;

-       Tăng cường hệ thống điện và nước sinh hoạt cùng mở mang đường xá cho vùng nông thôn (tứ năm 1997 đến 2007, Ấn Độ khai mở 35.000 đường xá cho nông thôn);

-       Đẩy mạnh công cuộc phát triển bền vững ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa và đáp ứng Nghị trình-21 do LHQ đề ra;

-       Cải tổ hành chính để đạt được hiệu quả cao để tăng phúc lợi cho toàn dân, nhứt là người nghèo ở thành phố và nông thôn.

 

Tất cả việc làm trên nhằm nhắm vào các mục tiêu cốt lõi sau:

 

-       Giải quyết nạn nghèo đói;

-       Nam và nữ bình đẳng trong giáo dục cũng như giải quyết nạn mù chũ trong dân chúng;

-       Giảm thiểu tình trạng trẻ em chết non và nạn tử xuất của các bà mẹ trong khi sinh sản;

-       Giáo dục kế hoạch hóa gia đình, và hạn chế tình trạng nhiểm HIV;

-       Khuyến khích và đẩy mạnh phát triển bền vững;

-       Phối hợp với các quốc gia Tây phương trong việc trao đổi thương mại, kinh tế, và phát triển bình đẳng và theo chiều hướng đặc thù dài hạn của quốc gia chứ không chạy theo lợi nhuận vô kế hoạch.

 

Từ những chính sách và mục tiêu phát triển trên, nhìn chung chúng ta thấy rõ là những người quản lý đất nước Ấn Độ đã có tầm nhìn nhân bản, tập trung vào việc nâng cao phúc lợi cho người dân và có ý thức thách nhiệm cao về công cuộc gìn giữ môi trường chung cho toàn cầu.

 

 

Còn những bước phát triển của Việt Nam thì sao?

 

Mặc dù chính sách mở cửa và tiếp cận bên ngoài ở Việt Nam bắt đầu trước AĐ 5 năm, nhưng tiến độ phát triển ở Việt Nam vẫn còn quá chậm so với quốc gia nầy. Mặc dù AĐ đã áp dụng một số chính sách chưa hoàn chỉnh và còn một số nhược điểm trong cán cân lao động, các số liệu trên vẫn cho thấy mức tăng trưởng của cả AĐ tăng nhanh hơn Việt Nam trong cùng một thời gian, dù cho AĐ phải cưu mang một số lượng nhân khẩu cao gấp 14 lần hơn.

 

Nếu lấy mức lợi tức đầu người và mức tăng trưởng của năm 2004 làm chuẩn, thì trong năm 2003, mỗi người dân Việt Nam được "giàu thêm"  $32, trong lúc đó người dân AĐ được hưởng thêm $43. Từ các con số trên chúng ta có thể hình dung được mức cách biệt ngày càng cách xa, nếu Việt Nam không có một chính sách đẩy mạnh phát triển kinh tế đúng đắn.

 

Việt Nam vẫn còn 22 triệu người (theo thống kê của 2004 Việt Nam), chiếm 26,8% tổng số dân, vẫn còn sống dưới mức nghèo đói tuyệt đối, mà tuyệt đại đa số là nông dân (chiếm 63% dân số toàn quốc). Theo thống kê VN năm 2008, mức nghèo giảm xuống còn 16% (Định nghĩa nghèo của VN là 200.000 Đồng/tháng, tương đương $US133/năm, chỉ bằng 1/3 của mức nghèo tuyệt đối so với định nghĩa của LHQ).

 

Thực sự con số trên có thể còn cao hơn nữa, nếu chúng ta chịu làm một cuộc khảo sát sâu rộng ở vùng ĐBSCL, nhiều nơi, người dân chưa hề nhìn thấy được tờ giấy bạc 50.000 đồng, chứ đừng nói đến  giấy bạc 100.000 hay 500.000!

 

Qua các phân tích ở phần trên, việc truy tìm một hướng phát triển đúng đắn cho Việt Nam trong tương lai thiết nghĩ không phải là một việc khó khăn. Từ những con số thống kê, chúng ta đã thấy những sự phân bổ lao động trong các lãnh vực phát triển không cân đối. Từ đó, bài toán đầu tiên cho phát triển là cần phải giảm tỷ lệ nông dân và tăng tỷ lệ lao động cho kỹ nghệ và dịch vụ. Tuy chưa có số thống kê riêng rẽ cho kỹ nghê và dịch vụ, nhưng quan sát các sinh hoạt thương mãi ở các thành phố lớn, chúng ta có thể hình dung được lao động trong các dịch vụ lao động đơn giản vẫn chiếm đa số. Và dịch vụ nầy không thể so sánh được với khu vực dịch vụ mà Colin Clark đã định nghĩa.

 

Việc chuyển dịch số lao động trong nông nghiệp sang kỹ nghệ sản xuất sẽ làm tăng mãi lực tạo ra của cải vật chất, từ đó lợi tức đầu người sẽ tăng theo, và theo phản ứng dây chuyền, kinh tế sẽ chuyển dịch nhanh hơn.

 

Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn AĐ để làm công cuộc chuyển dịch nầy. Đó là kỹ nghệ dầu hỏa. Hiện tại cán cân xuất nhập dầu thô để đổi lấy xăng, dầu và hóa chất vẫn còn âm tính. Chính quyền Việt Nam hiện tại còn phải tiêu tốn một khối lượng lớn ngoại tệ nặng cho dịch vụ nầy, chưa kể đến mức "bảo trợ" giá bán xăng dầu trong nước để tránh việc tăng giá các mặt hàng tiêu dùng và điều sau nầy có nguy cơ tạo ra khủng hoảng xã hội. Việc làm sau nầy đã khiến cho ngân sách nhà nước càng thêm thâm thủng. Và việc phải đến đã đến, là trong những tháng gần đây, chính phủ phải điều chỉnh giá xăng dầu ba lần, một chỉ dấu cho thấy tình trạng lạm phát đã xảy ra trong năm 2008 là điều khó tránh khỏi (20.8% theo thống kê VN). Và việc nầy cũng đang xảy ra cho những ngày cận Tết Canh Dần, 2010.

 

Ngoài ra, nếu thử duyệt xét các đầu tư ngoại quốc vào Việt Nam trong vòng 10 năm trở lại, chúng ta chỉ thấy hầu hết các đầu tư nầy đều có tính cách dịch vụ và phục vụ, không đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế và xã hội Việt Nam hiện tại.

 

Xin đan cử một vài thí dụ, với lợi tức đầu người trung bình là $1.000/năm, làm thế nào một người dân Việt có thể mua được một chiếc xe hơi trị giá 4, 5 chục ngàn Mỹ kim? Trong lúc đó, hiện có trên 10 hảng xe ngoại quốc đầu tư để "lắp ráp" xe hơi tại Việt Nam. Thị trường Việt Nam chỉ có khả năng hấp thụ hàng năm khoảng 8000 đấn 10.000 xe mà thôi. Do đó, kỹ nghệ ráp xe nầy không đáp ứng được nhu cầu sử dụng lao động ở Việt Nam tương xứng với vốn đầu tư cho kỹ nghệ trên. Một câu hỏi được đặt ra nơi đây là, có công ty ngoại quốc nào chú ý đến mở một nhà máy sản xuất bánh xe, tận dụng nguồn nguyên liệu cao su sẳn có của Việt Nam, thay vì phải xuất cảng cao su thô và nhập cảng bánh xe từ bên ngoài?

 

Bước qua kỹ nghệ hóa chất và phân bón cùng các loại thuốc bảo vệ thực vật, có nhiều công ty 100% vốn ngoại quốc, và công ty hợp doanh với doanh thương người Việt, nhưng thật sự đây không phải là những nhà máy sản xuất đúng nghĩa mà chỉ nhập cảng nguyên liệu chính từ ngoại quốc, rồi pha trộn theo tỷ lệ, cho thêm vào các chất phụ gia (chất đệm) rồi tung "thành phẩm" ra thị trường nội địa. Nếu thực hiện công đoạn sản xuất các kỹ nghệ trên với nguyên liệu đến từ các phụ phẩm từ một nhà máy lọc dầu ở nội địa, Việt Nam có thể thu hút hàng triệu công nhân lao động và có thể dự trử thêm nhiều ngoại tệ nặng dùng cho việc nhập cảng các nguyên liệu hóa chất để chế biến trên.

 

Chuyển dịch lao động nông thôn thành công nhân kỹ nghệ còn là một việc làm thích hợp với chiều hướng toàn cầu hóa và cải thiện được đời sống kinh tế của nông dân. Thêm nữa, việc làm nầy sẽ hạn chế được tình trạng ô nhiễm mội trường trong không khí và trong nguồn nước, cũng như hạn chế được việc tận dụng nguồn nước ngầm, đặc biệt ở vùng ĐBSCL.

 

Việc đẩy mạnh nông nghiệp và chăn nuôi ở vùng nầy trong 10 năm vừa qua đã làm nguồn nước ngầm ở nhiều nơi đã bị cạn kiệt, như ở Trà Vinh, Sóc Trăng, nhiêù nơi mực nước ngầm xuống thấp từ 2 đến 2,5m do việc đào trên 50.000 giếng ở hai tỉnh nầy. Việc làm nầy đã làm tăng nguy cơ sụp lỡ đất cũng như việc nước biển lấn sâu vào nội địa trong mùa khô.

 

Từ một vài thí dụ điển hình trên đây, về nông nghiệp và chăn nuôi, chúng ta đã thấy phát triển Việt Nam đang ở trong một tình trạng thiếu tổ chức, không đặt ưu tiên nào trước sau được vì không có chính sách phát triển dài hạn cho đất nước. Từ khi mở cửa, Việt Nam chỉ đặt trọng tâm vào việc làm thế nào để thu hút ngoại tệ nặng để cứu vản kinh tế đang trên đà kiệt quệ. Do đó, Việt Nam tận dụng bất cứ ưu tiên nào có khả năng đem ngoại tệ vào trước mắt. Để rồi từ đó, qua một thời gian, có những phản ứng phản hồi gây một số bất lợi về kinh tế và có nguy cơ tạo ra khủng hoảng xã hội qua kinh nghiệm tận dụng việc nuôi cá basa và tôm xuất khẩu. Nông dân đã phá ruộng, phá rừng để chăn nuôi hai sản phẩm vừa kể trên vì mức thu nhập rất hấp dẫn, gấp 10 lần việc trồng lúa. Nhưng chỉ vài năm sau, sau những vụ thất mùa vì ô nhiễm môi trường và thị trường bị ối động...người dân có muốn trở về tình trạng trồng lúa ban đầu thì đã muộn.

 

Việt Nam đã tận dụng nông nghiệp để có ngoại tệ nặng qua việc xuất cảng trên 10 năm nay như lúa gạo, cao su, cà phê, tiêu, trà, hột điều, tôm, cá.v.v... mà không "nhìn" thấy những ưu tiên khác trong tiến trình phát triển dựa theo thuyết tam khu; do đó, một số ưu tiên khác để phát triển qua các ngành "cao cấp" hơn đều bị "bỏ quên". Điều nầy thể hiện một não trạng đã đóng băng trong tiến trình phát triển ở thế kỷ 21 nầy.

 

Bước qua ưu tiên hai của thuyết tam khu là tiến trình sản xuất do kỹ nghệ, Việt Nam đã thể hiện quá nhiều cố gắng để kêu gọi đầu tư ngoại quốc, đối lại đối tác trong nước chỉ là các công ty quốc doanh, không có nguồn vốn, chỉ đem mặt bằng (đất của quốc gia) ra thế chấp thay nguồn vốn ban đầu. Từ đó, sự khai thác, sản xuất phần lớn đều lệ thuộc vào tư bản ngoại quốc. Và hậu quả tất nhiên là ngoại quốc khống chế thị trường tiêu thụ hoàn toàn sau khi sản xuất. Đây là một điểm bất lợi lớn trong phát triển. Việt Nam đã mở mà không chịu mở thật sự (vì luôn luôn mang niềm lo sợ bị khuynh đảo(!)) để cho tư nhân nội địa có cơ hội mang nguồn vốn vào làm đối tác ngang hàng với ngoại quốc.

 

Nếu tình trạng phát triển ở giai đoạn nầy tiếp tục, thì về lâu về dài chúng ta sẽ thấy rõ những gì sẽ xảy ra: nguồn tài nguyên của đất nước sẽ bị cạn kiệt vì bị khai thác quá độ mà Đất và Nước không hưởng được do các thành quả của việc khai thác trên. Phát triển kinh tế trong thời bình 20 năm sau khi mở cửa, chúng ta đã thấy được gì ngoài những hình ảnh "thật sự" "phồn vinh giả tạo" mà chế độ đã từng gán cho Việt Nam thời trước 1975.

Khia thác than lộ thiên ở Bắc Việt

Qua các phân tích trên đây, một giải pháp giản dị trước mắt để tháo gở các khó khăn kinh tế và chuyển dịch lao động trong nông nghiệp được đề nghị là công nghệ hóa dầu trong điều kiện hiện có của Việt Nam. Đây sẽ là một giải pháp tối ưu hiện tại để từ đó Việt Nam có thể bước những bước vững chắc hướng về tương lai. Đó là việc xây dựng nhà máy lọc dầu và chế biến các sản phẩm hóa chất qua những phụ chất từ công cuộc hóa dầu nầy. Để rồi từ đó, Việt Nam có thể tự túc qua kỹ nghệ phân bón, thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc và một số hóa chất căn bản trong kỹ nghệ. Dự án khai thác và xây dựng nhà máy lọc dầu  Dung Quốc ở Quảng Ngãi thực hiện nửa chừng, tiêu tốn trên 200 triệu Mỹ kim, phải ngưng trệ 3 năm. Sau cùng tiêu tốn thêm hơn một tỷ Mỹ kim, nhưng chỉ chạy thử được vài mẽ đầu tiên vào đầu năm 2009, rồi vì "sự cố" kỹ thuật  mà phải đình chỉ cho đến hôm nay. Theo một thông báo chính thức của phủ Thủ tướng ra lịnh phải cho chạy lại trước Tết Canh Dần, nhưng điều nầy cho đến nay vẫn chưa xảy ra (10/2/2010).

 

Phóng viên nổi tiếng trên thế giới nhận định về các quốc gia Á Châu trong hơn 30 năm qua, Bill Hayton đã có nhận xét về tình trạng phát triển của Việt Nam như sau:" Các tập đoàn quốc doanh và công ty quốc doanh của đảng Cộng sản sở hữu và quản lý chi phối phần lớn nền kinh tế tài chính quốc gia. …Họ nắm giữ tất cả hầu như độc quyền…..Mô hình đặc trưng nói trên của thời kỳ tư bản đỏ "hậu cộng sản" nhưng vẫn dính chặt với cái đuôi cộng sản là nền chuyên chính vô sản, là để giới cầm quyền lợi dụng quân đội nhân dân, và công an nhân dân phục vụ riêng cho họ". "Ở Việt Nam, tầng lớp tư bản đỏ ước tính là 65 vạn người ngự trị trên sự thiếu thốn, nghèo đói, bịnh tật của 86 triệu đồng bào mà họ cai trị, bóc lột và thẳng tay đàn áp."

 

Thật là mĩa mai cho dân tộc Việt Nam!

Nhìn lại kinh nghiệm và bài học về phát triển kinh tế của AĐ, chúng ta nhận thấy, phát triển Việt Nam đúng hướng không phải là một việc không thể thực hiện được.

 

Qua lời phát biểu của một cựu Bộ trường Kế hoạch cs, Trần Xuân Giá vào đầu tháng 2, 2010:" Chúng ta không thể tiếp tục tư duy tăng trưởng theo lượng, khuếch đại, sùng bái con số và che đậy các khuyết điểm của nền kinh tế được nữa", chúng ta thực sự thấy rõ phát triển Việt Nam hiện tại đang đi vào bế tắc, và trách nhiệm chính trong sự bế tắc nầy là do những người quản lý đất nước.

 

Việt Nam cần có tầm nhìn toàn cầu, ứng hợp với chiều hướng phát triển chung của thế giới, chấp nhận luật chơi chung, và quan trọng hơn cả là cần phải xóa bỏ não trạng "độc tôn và duy ngã" trong tư thế lãnh đạo đất nước.

 

Và phát triển cần phải có một kế hoạch dài hạn, có tầm vóc quốc gia, chứ không phải cung cách "làm ăn" theo địa phương hoặc từng khu vực giống như hình thức trăm hoa đua nở như hiện nay như khai thác các khu du lịch và mở sân golf khắp nơi.

 

Có được như vậy, Việt Nam mới mong có cơ may cất bước đi tới được.

 

Mai Thanh Truyết

2/2010

 

 

 

//////////////////////////////////////////////////