Ô N

​h​
iễm Môi Trường: Một Khía Cạnh Mới Về Nhân Quyền Ở Việt Nam



Cho đến ngày nay, nhân quyền được hiểu một cách rộng rãi là quyền của con người được sống trên hành tinh nầy. Đó là những quyền tự do căn bản đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới chấp thuận và đồng ý cũng như đã chọn ngày 10/12 làm Ngày Quốc tế Nhân quyền.

Đối với Việt Nam, trong hơn 100 Luật và Nghị định thư về nhân quyền, Việt Nam chỉ phê chuẩn thành luật một vài luật như luật về kỳ thị phụ nữ (17/2/1982), về quyền lao động của trẻ vị thành niện (19/12/2000). Một số quyền chỉ được Việt Nam thừa nhận (assession) như Quyền Quốc tế Công nhận (covenant) về Dân sự và Chính trị ngày 24/9/1982, và một số quyền linh tinh khác. Tuyệt đại đa số những quyền căn bản áp dụng thực sự cho người dân sống trong một quốc gia không được Việt Nam thừa nhận cũng như ký kết hay phê chuẩn thành luật.

Đó là những luật lệ về quyền sống của con người, về tự do căn bản, về quyền lập hội, nghị định thư về phòng ngừa tra tấn trong việc xử phạt v.v... Do đó, Việt Nam vẫn còn nhiều thiếu sót trong việc bảo đảm một đời sống "công bình" và "công chính" cho người dân.

Hiện tại, người dân Việt không được hưởng những quyền hạn như mọi người dân của các quốc gia trên thế giới được hưởng theo quy định của LHQ. Ngay những điều kiện để được sống "tử tế" của người "văn minh" mà LHQ không đề cập đến vì đã được xem là những điều kiện căn bản đương nhiên phải có, thì người dân Việt vẫn chưa có, và ngày càng xa tầm tay.

Đó là những quyền mà người dân cần phải đòi hỏi, cần thúc hối, vì nó là sinh tử cho cuộc sống hằng ngày và cho tương lai. Có như vậy mới đặt giới lãnh đạo Việt Nam trong thế bị động, không thể chấp vá mãi một ổn định giả tạo, một phồn vinh bề ngoài, mà hệ quả là môi trường cạn kiệt. 

Đó là những điều thật sự căn bản điển hình được liệt kê sau đây:

1-    Quyền được cung cấp nguồn nước sạch trong sinh hoạt;

2-    Quyền được thở không khí trong lành;

3-    Quyền được ăn uống hợp vệ sinh và thực phẩm được kiểm soát để tránh nhiễm độc;

4-    Quyền được giáo dục và chỉ dẫn về khai thác nông nghiệp, xử dụng hóa chất và phân bón.


Tuy những quyền hạn vừa kể trên, tuy không được ghi trong bảng Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền nhưng đây là một thực tế mà người Việt Nam đang cần phải tranh đấu để có được. Sở dĩ các quyền trên được nêu ra nơi đây vì sau 40 năm điều hành và quản lý toàn cõi Đất Nước để mong vực dậy nền kinh tế kiệt quệ, Việt Nam, qua các chính sách, kế hoạch đã thực hiện, đang làm cho Đất và Nước đứng trước nguy cơ tài nguyên cạn kiệt và môi trường xuống cấp tệ hại.

Và nguyên nhân vì sao người dân Việt cần phải có những quyền kể trên được đan cử ra đây:

1-    Ảnh hưởng môi trường qua việc phá rừng

Trước chiến tranh thứ hai, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam là 19 triệu mẫu chiếm 58% diện tích cả nước. Cho đến năm 1943 rừng chỉ còn lại 14,1 triệu mẫu (43%); và đến năm 1990 tình trạng càng tệ hại hơn nữa, diện tích rừng chỉ còn 9,1 triệu mẫu (27,7%). Theo báo cáo năm 2002 của Ngân hàng Thế giới (WB), kể từ năm 1999 trở đi, hàng năm mức độ đốn rừng để xẻ gỗ được ước tính là 2 triệu m3. Ngoài ra còn phải kể đến việc cháy rừng vào mùa khô và việc chuyển đổi rừng nhằm nuôi tôm như vùng rừng tràm, đước ở Cà Mau.

Về ĐBSCL, trong hiện tại chỉ còn 5% rừng che phủ và đã mất đi khoảng 175.000 mẫu rừng ngập mặn tính đến 2003. Rừng ngập mặn ở nơi nầy thể hiện nhiều lợi điểm sau đây:

  • Chống lại sự xói mòn của biển,
  • Hạn chế được sự nhiễm mặn vào sâu trong vùng đất liền,
  • Và nhất là bảo vệ được đa dạng sinh học cho toàn vùng. Kỹ nghệ nuôi tôm đã đánh mất đi các lợi điểm nầy và hiện đang để lại một di hại không nhỏ cho toàn vùng hiện tại.

Về đất, hậu quả trước mắt ảnh hưởng từ việc phá rừng là sự thoái hóa của đất. Đất mất đi độ phì nhiêu và sự cân bằng dinh dưỡng. Lớp đất thịt trên mặt sẽ bị cuốn trôi sau những cơn mưa lũ vì không còn cây và rễ để giữ đất lại.

Ngoài sự thoái hóa của đất do nguyên nhân trên, sau gần 30 năm mở cửa và phát triển ồ ạt trong nông nghiệp, Việt Nam mất đi 2 tỷ tấn đất/năm (nguyên nhân chính yếu là do việc phá rừng) hay tính trung bình đất bị xói mòn tùy theo vùng và đã thất thoát từ 50 – 3200 tấn/mẫu/năm ảnh hưởng đến 23 triệu mẫu trên toàn quốc, chiếm 70% diện tích quốc gia.

2-    Ô nhiễm không khí

Dù Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto về sự hâm nóng toàn cầu vào ngày 25/9/2002, nhưng mức độ ô nhiễm không khí và bụi bậm ngày càng phát sinh nhiều thêm ra. Bụi là chất ô nhiễm không khí phổ biến nhất tại Việt Nam. Từ 20 năm qua, "... hầu hết các đô thị ở Việt Nam đều bị ô nhiễm bụi, nhiều đô thị bị ô nhiễm bụi trầm trọng tới mức báo động... Nồng độ bụi ở các khu dân cư ở bên cạnh các nhà máy, xí nghiệp hoặc gần các đường giao thông lớn đều vượt trị số TCCP [tiêu chuẩn cho phép] từ 2 đến 5 lần, "Theo một phúc trình của Ngân hàng Thế giới năm 1995, bụi từ nhà máy xi măng bao phủ hầu hết Hải Phòng, thành phố lớn thứ ba, vượt TCCP của chánh phủ từ 3 đến 8 lần".

Chì là một chất ô nhiễm không khí phổ biến khác, nhất là ở các đô thị. Lượng xe gắn máy và xe hơi tăng nhanh và việc nầy làm cho nồng độ chì trong không khí đo được trong khoảng từ 1 đến 4 micrograms/m3 (ug/m3). Để so sánh, theo kết quả nghiên cứu đăng trên tạp chí Pediatrics năm 1994, nồng độ chì trong không khí ở thành phố Chicago trong năm 1988 thì dưới mức 0.5 mg/m3", được xem như là một thành phố ô nhiễm nhất Hoa Kỳ.

3-    Ô nhiễm nguồn nước

LHQ đã khơi mào một quan niệm hết sức trong sáng là "Nước tự nó không màu và không biên giới cho nên không thể bị ức chế được" và "Tất cả mọi người trên thế giới đều có quyền có đủ lượng nước sạch và an toàn cần thiết cho nhu cầu hàng ngày". Ở Việt Nam, sự tăng trưởng một cách nhanh chóng về kinh tế và xã hội từ năm 1986 đã gây nên tình trạng ô nhiễm nước ở đô thị và nông thôn trên cả nước, và phẩm chất của các nguồn nước ở Việt Nam dường như càng ngày càng suy thoái.

Về nước, theo báo cáo của Ban Chỉ đạo Quốc gia về Cung cấp Nước sạch và Vệ sinh môi trường năm 2013, nguồn nước ở Việt Nam ngày càng bị khan hiếm và ô nhiễm. Sự thoái hóa nầy tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng trưởng kinh tế, nhất là ở những năm gần đây. Nhu cầu nước cho nông nghiệp chiếm 88%, và cho kỹ nghệ chiếm 7%.

Các nguồn nước thải từ khu gia cư, từ các trung tâm kỹ nghệ, khu chế xuất, đất nông nghiệp v.v...đã xâm nhập vào nguồn nước mặt, nước ngầm, thậm chí ảnh hưởng đến phẩm chất nước ở vùng duyên hải nữa. Nước sinh hoạt gia cư, nước thải kỹ nghệ, và nước rỉ từ các bãi rác là nguyên nhân chính yếu cho việc ô nhiễm hữu cơ trong nguồn nước mặt đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ v.v... căn cứ theo báo cáo trên. "Trên toàn quốc, số lượng nước thải gia dụng và kỹ nghệ không được gạn lọc và xả trực tiếp vào sông ngòi được ước tính vào khoảng từ 2400 đến 3000 triệu m3 một năm theo ước tính năm 2010 của Ngân hàng Thế giới.

4-    Việc xử dụng hóa chất bảo vệ thực vật

Dựa theo kết quả phân tích của các nhà khoa học và y tế Việt Nam, các vụ ngộ độc thực phẩm như rau muống, cà pháo, ngó sen, bắp cải v. v.. là do thuốc bảo vệ thực vật thuộc gốc organo-phosphate. Danh từ thuốc bảo vệ thực vật Việt Nam dùng để chỉ các loại hóa chất dùng làm thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu rầy, thuốc diệt cỏ dại, và thuốc trừ nấm. Việc truy tìm nguyên nhân cho các vụ ngộ độc trên cũng tương đối giản dị. Xin đan cử ra đây ba lý do chính khiến cho tình trạng ngộ độc ngày càng có tính cách phổ quát hơn là:

  • Người sử dụng thuốc bảo vệ thực vật không có đủ thông tin trong khi dùng đến các loại thuốc trên. Ở Việt Nam hiện có trên 200 loại thuốc và có trên 700 nhãn hiệu khác nhau, chưa kể các thuốc nhập lậu không có nhãn hiệu, và rất nhiều tên thuốc nằm trong danh sách bị cấm sử dụng;
  • Nông dân không được hướng dẫn đầy đủ trước khi sử dụng;

Cơ quan Lương Nông quốc tế (FAO) đã từng khuyến cáo là chỉ số xử dụng thuốc bảo vệ thực vật ở Việt Nam rất cao, đạt mức trung bình cho một mùa là 5,3, trong lúc đó chỉ số trên ở Trung Cộng là 3,5, Phi luật Tân, 2,0, và Ấn Độ, 2,4. Thêm nữa, tiến sĩ Ngô Kiều Oanh, thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên đã nhận định rằng so với diện tích đất nông nghiệp ở Việt Nam thì chỉ cần độ 50 ngàn tấn thuốc bảo vệ thực vật là quá dư thừa rồi. Như vậy, nông dân Việt Nam đã tiêu dùng gấp 30 lần lượng hóa chất nhiều hơn mức trung bình! Từ đó suy ra mức ô nhiễm hóa chất độc hại lên thực phẩm tiêu dùng ở Việt Nam là kết quả đương nhiên mà người tiêu thụ trong nước phải hứng chịu.

Ở Việt Nam, thuốc bảo vệ thực vật được xử dụng riêng rẽ hoặc dưới dạng hỗn hợp (cocktail) để tăng cường độ độc chất của thuốc trước sức đề kháng của sâu rầy.. . DDT được coi như là tác nhân chính trong nhiều hỗn hợp trên. Thí dụ: hỗn hợp DDT, Thiodan (hay Endosulfan) và Folidol (Methyl Parathion) thường hay được pha chế để trừ sâu cuốn lá và các côn trùng khác. Ngoài việc dùng hóa chất cho nông nghiệp, nông dân còn xử dụng các thuốc bảo vệ thực vật trong việc săn bắt tôm cá nữa(!)

Sau đây là danh sách một số hóa chất độc hại được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam: DDT, Folodol, Mevinphos, Dichlovos, Carbofuran, Methamidophos, Endosulfan (hay Thiodan), Diazinon, Glycosate (hay 2,4-D), Diazonin, Chlopyrifos, Zinc Phosphide, Paraquat, Aluminum Phosphide. Và đây là những hóa chất hoàn toàn đã bị cấm sản xuất và xử dụng. Sở dĩ các hóa chất nầy hiện diện được ở Việt Nam là qua ngã đường biên giới Trung Cộng.

Do đó, nguy cơ ô nhiễm môi trường sống ờ Việt Nam cho đến ngày nay không còn là một sự kiện cần phải bàn cãi. Đây là một nguy cơ thực sự mà Việt Nam cần phải đối mặt và giải quyết tức thời. Trước việc các sản phẩm thực phẩm của Việt Nam xuất cảng ra ngoại quốc tiếp tục bị trả hàng loạt vì có dung lượng hoá chất cao hơn quy định, và sản phẩm tiêu dùng trong nội địa bị nhiễm độc thường xuyên, viễn ảnh một nền kinh tế què quặt trong tương lai chắc chắn sẽ phải xảy ra mà thôi.
Việc áp dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng cách (đúng liều lượng thích hợp), không đúng đối tượng (sâu rầy ...), và không đúng thời gian là ba yếu tố làm cho:

  • Môi trường thoái hóa nhanh;
  • Hiệu quả kinh tế trong sản xuất thấp;
  • Và sức khoẻ của nông dân bị ảnh hưởng vì không có biện pháp phòng bị an tòan trong khi tiếp cận với hoá chất.


Một thí dụ trong việc trồng lúa. Nông dân thường có thói quen phun xịt đồng ruộng trong tháng đầu tiên sau khi gieo mạ. Điều nầy chẳng những không cần thiết mà ngược lại việc làm nầy tiêu diệt các loại côn trùng "bạn" có khả năng diệt trừ sâu rầy. Thêm nữa, việc phun xịt sớm chỉ tiêu diệt được sâu rầy trưởng thành nhưng không diệt được các trứng của chúng. Theo ước tính Việt Nam đã xử dụng 42% trên tổng số thuốc bảo vệ thực vật để tiêu diệt sâu cuốn lá, nhưng nghiên cứu đã cho thấy rằng cây lúa dù mất đi 50% lá vẫn giữ nguyên năng suất lúc ban đầu. Viện Đại học Cần thơ và IRRI (Philippines) đã chứng minh từ năm 1995 rằng việc xịt thuốc trừ sâu cuốn lá là điều không cần thiết nữa. Thêm nữa, nếu kể chi phí y tế của nông dân vào việc sản xuất thì việc xử dụng hoá chất bảo vệ thực vật là một việc làm không hiệu quả kinh tế.

Vì các lý do trên, những quốc gia sản xuất nông nghiệp trên thế giới đều có khuynh hướng giảm thiểu tối đa việc dùng hóa chất.

5-    Quyền được giáo dục và hướng dẫn

Tỷ lệ nông dân ở Việt Nam là 60% theo thống kê 2014 tức là khoảng 56 triệu. Tuyệt đại đa số không được giáo dục và hướng dẫn cách xử dụng hóa chất trong nông nghiệp. Nam Dương là quốc gia trong vùng có viễn kiến đúng đắn và được xem như là một điển hình về phát triển nông nghiệp đúng cách và có sách lược trong mục đích phát triển quốc gia ứng hợp với việc bảo vệ môi trường.

Nam Dương là một quốc gia nông nghiệp lấy việc trồng lúa làm nền tảng cho phát triển quốc gia để hy vọng tiến đến việc tự túc lương thực. Từ 1986, Tổng thống Suharto đã lấy quyết định nghiêm cấm xử dụng 28 loại hoá chất bảo vệ thực vật đặc biệt cho kỹ nghệ trồng lúa. Thành quả thâu đạt được đầu tiên là, từ 1986 đến 1989, Nam Dương đã khỏi phải tiêu tốn hàng năm 100 triệu Mỹ kim qua Quỹ bảo trợ nông nghiệp cho nông dân trong việc dùng các hoá chất trên.

Thêm nữa, chính quyền Nam Dương nâng chính sách "Quản lý tòan diện sâu rầy" (Integrated Pest Management) làm quốc sách, như thiết lập các trường huấn luyện nông dân với mục đích nâng cao kiến thức cho nông dân trong việc xử dụng hóa chất. Kết quả hiện tại Nam Dương có hơn một triệu nông dân "chuyên nghiệp" tốt nghiệp ở các trường đào tạo nầy, và hầu như làng nào cũng có một hay nhiều nông dân chuyên nghiệp. Từ đó, trình độ hiểu biết về canh nông của nông dân được tăng thêm qua sự hướng dẫn của "nông dân chuyên nghiệp" trên. Mục tiêu của các trường huấn luyện là: 1- khuyến cáo nông dân xử dụng càng ít hóa chất càng tốt, 2- nếu cần xử dụng thì phải xử dụng có hiệu quả. Do đó, năng xuất trồng trọt tăng cao và việc cải thiện đời sống kinh tế của nông dân cũng tăng theo sau đó.

Sau mười năm áp dụng, Nam Dương thu thập được những thành quả sau đây:

  • Việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật hầu như chấm dứt trong việc trồng lúa;
  • Năng suất lúa gạo tăng 10%;
  • Chi phí y tế công cộng do bị nhiễm độc hóa chất giảm từ khi áp dụng chính sách Quản lý toàn diện sâu rầy

Kết luận

Từ những vấn nạn môi trường kể trên, một lần nữa, nhân ngày Nhân quyền Việt Nam, thiết nghĩ Việt Nam cần phải giải quyết các vấn đề xã hội để mang lại những quyền hạn căn bản tối thiểu cho đời sống con người ở thế kỷ 21 nầy. Nếu không, mọi cố gắng về cải cách kinh tế để nâng cao mức phát triển của Việt Nam sẽ bị thiêu rụi tất cả vì những vấn nạn trên.

Một trong những trách nhiệm nặng nề nhất của lãnh đạo Việt Nam là để cho UNICEF bảo trợ và cổ súy cho việc đào giếng để có nguồn nước sạch. Gương Bangla Desh còn trước mắt với trên 4 triệu giếng khoan trên toàn quốc và hàng năm có hàng trăm ngàn người chết vì ô nhiễm Arsenic (thạch tín) trong nguồn nước.

Việt Nam cho đến nay, vẫn tiếp tục cổ súy việc đào giếng mặc dù đã nhận thức rằng thảm họa ô nhiễm arsenic đã là một hiện thực, đặc biệt là tại đồng bằng sông Hồng và ĐBSCL qua sự xuất hiện chứng bịnh arsenicosis tại một số vùng phía Nam Hà Nội vì giếng nước có nồng độ arsenic cao hơn hàm lượng cho phép (10 ug/L nước) gấp hàng chục lần.

Thiết nghĩ những vấn nạn kể trên cũng là một hình thức vi phạm nhân quyền trầm trọng đối với người dân Việt. Nếu biết quản lý và xử dụng nguồn nước mưa đúng cách với vũ lượng hàng năm khoảng 2.000 mm nước mưa, Việt Nam có thể giải quyết nguồn nước sinh hoạt cho người dân dễ dàng trong những vùng trên.

Việt Nam cần có tầm nhìn toàn cầu, ứng hợp với chiều hướng phát triển chung của thế giới, chấp nhận luật chơi chung, và quan trọng hơn cả là cần phải xóa bỏ não trạng "độc tôn và duy ngã" trong tư thế lãnh đạo đất nước.

Việt Nam đã chiến thắng quân sự trong quá khứ. Từ đó, sau 40 năm, có thể nói ngày hôm nay, não trạng của lãnh đạo Việt Nam đã bị nhiễm độc vì "chất da cam" cho nên nảy sinh ra bịnh tham nhũng trầm trọng và hội chứng cường quyền trong việc quản lý xã hội.

Phải chăng chiến thắng trong chiến tranh, tuy đã đi vào dĩ vãng 40 năm, nhưng vẫn còn mang lại cho lãnh đạo Việt Nam hào quang và cảm giác ngất ngây của ngày chiến thắng năm xưa?

Với những cách nghĩ như trên cộng thêm tâm khảm của một não trạng nghi ngờ, mặc cảm phải tỏ ra chủ động trong mọi quyết định có tính cách "quốc tế", và hội chứng chuếch choáng với hơi khói chiến tranh vẫn còn đâu đây... làm sao Việt Nam có thể hội nhập vào cộng đồng thế giới và tạo được sự thông cảm toàn diện và đồng thuận ở cả hai mặt chính quyền và người dân.

Thống nhất lãnh thổ chưa đủ. Việt Nam cần phải thực tâm nhận lỗi và chủ động trong việc hàn gắn lại toàn khối dân tộc đã rạn nứt vì đa số đã bị bỏ rơi, bạc đãi và bị xua đẩy. Chỉ có việc làm sáng suốt nầy mới có thể tạo ra cơ hội cứu vãn Việt Nam trong tiến trình mới của nhân loại.

Trong những năm gần đây, tiến trình toàn cầu hóa của các quốc gia trên thế giới đã chứng minh rằng quốc gia nào không thích ứng với những đổi thay nhanh và mới sẽ bị tan rã không sớm thì muộn. Vì những cấu trúc thượng tầng sẽ không còn ứng hợp với sức ép của người dân, và khả năng kiểm soát các vấn đề xung đột từ hạ tầng tức là từ phía nhân dân của lãnh đạo, sẽ không còn hiệu nghiệm nữa.

Và điều sau nầy chắc chắn sẽ là một cảnh báo nghiêm trọng và rốt ráo trong những ngày sắp tới cho Việt Nam.

Mai Thanh Truyết

Bài phát biểu tại Quốc hội nhân Ngày Nhân Quyền Việt Nam 11-5-2010 đã được hiệu đính 11-5-2015

 


_____________________________________________________

Mai Thanh Truyết

http://maithanhtruyet.blogspot.com/

 

 T do là Ung dung trong Ràng buc

Hnh phúc là T ti trong ...Đau thương"Tuệ Hải

 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-


 

 

 
 
 
 


Radio Dallas 1600AM

Chương trình Tiếng Nói Da Vàng

Đôi Đũa Trung Cộng

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhã Quyên: Sau những trao đổi về những ngày đau buồn của đất nước tức là Ngày Quốc Hận, hôm nay Chương trình Tiếng Nói Da Vàng lại trở về với thính giả vùng Dallas và phụ cận. Đề tài trao đổi với TS MTT hôm nay là một đề tài thú vị, gần gủi với dân tộc Việt. Đó là đôi đũa dùng trong những bửa cơm Việt Nam. Trước hết xin chào TS và xin TS bắt đầu Chương trình hôm nay.

MTT: Cám ơn Cô NQ đã giới thiệu đề tài thảo luận hôm nay. Đũa là một dụng cụ dùng để gấp đồ ăn thông dụng đối với Việt Nam, Trung Cộng, Nhật Bản, và Đại Hàn, so với nĩa hay dùng bàn tay của các dân tộc Tây phương hay dân tộc có đạo Ấn, Hồi hay Islam. Có thể nói gần 1/3 dân số trên thế giới dùng đũa để ăn. Đối với bốn quốc gia kể trên, đũa dự phần quan trọng vào văn hoá ẩm thực của người dân.  Người Trung Hoa đã bắt đầu dùng đũa trên 3.000 năm trước. Tiếng Tàu cỗ gọi đũa là "Zhu", và tiếng hiện tại là "Kuaizi". Theo lịch sử TC, đũa đã được xử dụng từ triều đại nhà Thương (Shang) (từ năm 1600 trước Thiên Chúa). Đũa tre có trước đũa làm bằng ngà voi hàng ngàn năm trước đây. Sau đó đũa làm bằng đồng (copper) xuất hiện vào khoảng 1.100 trước Thiên Chúa; rồi đến đũa sơn (lacquer) vào năm 206  TTC. Sau cùng đũa vàng và bạc xuất hiện dưới triều Tống vào năm 618 sau Thiên Chúa. Đũa vàng và bạc ngoài lý do phô trương sự giàu sang còn dùng để khám phá sự hiện diện của chất độc trong thức ăn nữa (các quan lại, vua chúa thời nầy rất tin tưởng vào đìều nầy).

NQ: Qua sự trình bày về lịch sử của đũa, chúng ta thấy đũa đã trãi qua một quá trình dài cũng không kém chiều dài lịch sử của Vệt Nam mình từ đũa làm bằng cây tre, rồi đến đũa bằng ngà voi rồi qua kim loại, rồi qua plastic, …rồi trở về bằng …đũa gỗ…Nếu nói về phân loại, TS có thể cho thính giả biết thêm về cung cách phân loại qua từng thời kỳ hay không không?

MTT: Thưa Cô NQ. Đũa có thể được phân chia thành năm nhóm khác nhau tuỳ theo nguyên liệu dùng để chế tạo. Đó là đũa gỗ (tre hay các loại cây khác), đũa kim loại, đũa làm bằng xương thú vật, đũa bằng đá, và đũa làm bằng các hổn hợp hoá chất gọi là đũa tổng hợp. Theo phong tục của người TH, khi ăn không nên khua đũa, vì việc gây ra tiếng động nầy là biểu tượng cho việc làm của người hành khất khua đũa để gây sự chú ý của người qua đường. Hàng năm TC sản xuất 45 tỷ đôi đũa để dùng trong nước và xuất cảng 1/3 qua Đại Hàn và Nhật. Một công ty Hoa Kỳ ở Duluth, Minnesota đã sản xuất hàng ngày 200 triệu đôi đũa và xuất cảng qua TC.

 Việc dùng đũa cho đến hôm nay đang là một vấn đề tranh cãi lớn trên thế giới vì các nhà khoa học "xanh" cũng như các tổ chức phi chính phủ (NGO) chống lại việc dùng đũa xài một lần trong ăn uống vì ảnh hưởng lên môi trường do việc phá rừng để làm nguyên liệu.

Muốn có 1,8 tỷ đôi đũa cần phải đốn một triệu cây rừng!

Do đó, đũa "dùng một lần" (disposable hay on-time) đối với các giới trên, cũng là một hiễm họạ làm tăng sự hâm nóng toàn cầu do việc cây cối không còn hấp thụ CO2 nữa vì với một triệu mẫu cây trồng có thể hấp thụ hàng năm 70 triệu tấn CO2 trong bầu khí quyển trái đất . 

Các phong trào tẩy chay đũa dùng một lần ngày càng phổ biến ở TC. Học sinh, sinh viên, và nhạc sĩ "pop TC" lên tiếng khắp nơi vận động việc cấm xài đũa dùng một lần. Đứng về phía chính quyền TC, họ cũng có vài hành động tích cực đáp ứng lại đòi hỏi của phong trào là ra lịnh cho trên 100 cửa hàng ăn uống quốc doanh dùng đũa "tổng hợp" (hoá chất). Gần đây Thượng Hải và một vài tỉnh lớn ra lịnh cầm dùng loại đũa nầy. Phong trào cũng lan rộng qua Nhật Bản, nhưng chưa gây được sự chú ý nhiều vì 25 tỷ đôi đũa người Nhật dùng hàng năm không do sự chặt đốn cây trồng ở Nhật mà do nhập cảng từ Hoa Kỳ và TC. Đại Hàn kể từ năm 2000 bắt đầu cấm xài đũa dùng một lần và thay thế bằng đũa kim loại ở các tiệm ăn.

Một hành động tích cực khác của chính quyền TC là mới vừa ban hành việc đánh thuế 5% lên đũa gỗ dùng một lần nhằm mục tiêu cải thiện việc phá rừng và bảo vệ môi trường sống cho thế hệ về sau cũng như khuyến khích người dân dùng các loại đũa khác để có thể xài nhiều lần.

NQ: Nói như vậy thì các quốc gia như Nhật, Đại Hàn, TC cũng có ý thức về nguy cơ của việc dùng đũa xài một lần vì ngoài lý do ảnh hưởng lên môi trường sống toàn cầu vì do sự đốn cây rừng làm mất đi sức hấp thụ khí CO2, do đó, làm cho tiến trình hâm nóng toàn cầu trầm trọng thêm lên. Thêm nữa, đứng về phương diện an toàn vệ sinh, xin Ông cho biết thêm về sự tác hại cũng như ảnh hưởng lên xã hội trong việc dùng đũa xài một lần và cung cách ứng xử của các quốc gia như thế nào, thưa Ông?

MTT: Thưa Cô. Các chính quyền đặc biệt như TC cũng có lưu tâm đến vấn đề an toàn vệ sinh trong việc sản xuất đũa như câu chuyện đũa TC ở đây, vì nhà chức trách TC đã từng ra lịnh thu hồi vào năm 2013 trên 45 tỷ (45.000.000.000) đôi đũa dùng một lần đang trên đường qua Nhật Bản và Đại Hàn.  Theo lời ông Chiu Ree, sở dĩ có lịnh thu hồi nầy vì trong đợt xuất cảng trước, các quốc gia nhập cảng đã khám phá là đũa bị nhiễm độc.

Nên nhớ, đũa dùng để xuất cảng của TC làm bằng gỗ, được sơn màu trên đó lại còn thêm những hoa văn làm cho đẹp mắt và làm cho đũa khỏi bị thấm nước. Nhưng một khi sơn bị tróc ra đũa trở nên vô dụng vì nước đã đi vào các sớ gỗ. Cơ quan an toàn vệ sinh thực phẩm ở hai quốc gia kể trên sau khi phân tích lớp sơn bên ngoài đũa đã khám phá ra sự hiện diện của chì (lead) và một số hoá chất hữu cơ khác cao hơn định mức an toàn cho phép. Kể từ đây Nhật và Đại Hàn có lẽ phải dùng muỗng nĩa khi ăn uống trong một thời gian dài.

NQ: Quả thật câu chuyện về đôi đũa trông có vẻ tầm thường nhưng thật sự hết sức phức tạp về nhiều phương diện khác nhau, xin Ông cho biết cung cách sản xuất đũa thông thường ở TC.

MTT: Có thể nói, điển hình nhứt là một nhà máy sản xuất đũa ở tỉnh Triết Giang đã bị phát hiện khi đang luộc sôi đũa trong một bồn ngâm hóa chất hydro peroxid dùng trong công nghiệp, sau đó đánh bóng đũa bằng sáp paraffin.

Đây là loại đũa dùng một lần, trung bình mỗi năm Trung Cộng chặt 20 triệu cây 20 năm tuổi để làm ra 80 tỷ đôi đũa loại này. Sau khi được đóng gói qua loa, số đũa này được phân phối trong các khu chợ tại Thượng Hải trước được đưa lên bàn ăn trong các nhà hàng. Một khách hàng cho hay cô đã luộc đũa để khử trùng trước khi dùng cho thực phẩm, tuy nhiên một phần nước trong nồi đã bốc hơi.

Theo các chuyên gia, loại đũa này được ngâm trong chất bảo quản có tên gọi sulphur dioxid, loại chất này được tìm thấy có hàm lượng cao quá mức trong đũa được bán tại các khu chợ ở Thượng Hải.

NQ: Vấn đề quan trọng như thế, nhưng thưa Ông, người dân cũng như các nhà khoa học hay các xã hội dân sự có lưu ý và khuyến cáo cũng như vận động dân chúng thấy rõ nguy cơ cùng các biện pháp phòng ngừa trong khi dùng đũa xài một lần không thưa Ông?

MTT: Dư luận khắp nơi đều có lưu ý đến vấn đề nầy thưa cô. Chẳng hạn như, thông điệp của nam diễn viên TC Huang Bo đăng trên blog với nội dung: "Ngừng sử dụng đũa (loại dùng một lần), đó không phải vấn đề bảo vệ môi trường, mà chính là cách cứu lấy cuộc sống của riêng bạn", và suy nghĩ nầy, ngay sau khi được đưa lên mạng, thì có ngay 125.000 lượt tham khảo và chia sẻ bởi dân cư mạng, cũng như nhận được sự hưởng ứng của đông đảo người dân.

Hay, Ông Dong Jinshi, Tổng thư ký của Hiệp hội bao bì thực phẩm quốc tế, cho biết, màu sắc và mùi vị của đôi đũa có thể chỉ ra chúng đã được tiếp xúc với lưu huỳnh và các chất hóa học khác. Ông cho biết:"Sulphur, hydrogen peroxide, sodium sulfite và các hóa chất chống nấm mốc thường được sử dụng để làm loại đũa sử dụng một lần, dù điều đó là trái phép".

Theo ông Dong, hầu hết các đôi đũa được làm trong các xưởng nhỏ ở miền núi, nơi mà các công ty không cần cấp giấy phép sản xuất. Các đôi đũa, sau đó, được vận chuyển đến các thành phố lớn để vô gói là bày bán tràn lan khắp nơi. Đó là chưa kể các đủa dùng một lần được thu hồi trở lại và "tái chế" để rồi tung ra thị trường trở lại!

Do vậy, một lời khuyên cho người tiêu dùng là nếu muốn bảo đảm sức khỏe của chính bản thân mình, cần phải hết sức thận trọng mỗi khi sử dụng đồ ăn hay vật dụng không rõ nguồn gốc, xuất xứ.

NQ: Còn tại Việt Nam thì sao thưa Ông? Việc xài đũa một lần nầy trong xã hội Việt Nam có được phổ biến không thưa Ông?

 

MTT: Tại Việt Nam hiện nay, đũa xài một lần cũng được sử dụng phổ biến tại hầu hết các quán ăn, từ quán hạng sang cho tới quán bình dân với giá rẻ bèo. Tuy nhiên, hiện ở Việt Nam chưa có tiêu chuẩn về phẩm chất đối với loại đũa dùng một lần, có chăng chỉ quy định chung chung như không bẩn, không nhiễm vi khuẩn. Trên thực tế, những tiêu chuẩn ấy chưa thể giúp nhận biết chính xác độ vệ sinh của sản phẩm.

TS Trần Đáng, nguyên Cục trưởng cục Vệ sinh an toàn thực phẩm (bộ Y tế) cho biết, các chất như: sodium sulfite, sulfure dioxide… về nguyên tắc không được sử dụng trong chế biến thực phẩm và những sản phẩm tiếp xúc với con người qua đường miệng, bởi "hoá chất tồn đọng trên đũa dùng một lần có thể không nhiều để xảy ra ngộ độc cấp tính, nhưng nó sẽ dẫn đến tổn thương mãn tính". Cũng theo TS Đáng, hoá chất có gốc lưu huỳnh như sulfure dioxide có thể gây rối loạn tại chỗ đường tiêu hoá, rối loạn vi khuẩn đường ruột, gây loét niêm mạc đường tiêu hoá... Nếu sử dụng thường xuyên, độc chất có thể ngấm vào máu và tích luỹ, dẫn tới xáo trộn nhiệm vụ của gan, thận, cơ quan tạo máu... Và đây là một trong những nguyên nhân gây bệnh mạn tính và ung thư.

Còn theo lời của TS Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ sinh học – công nghệ thực phẩm, đũa dùng một lần thường được làm từ loại tre có phẩm chất không tốt (tre non, tre tồn dư…), khả năng chịu ẩm mốc rất kém. Để chống nấm mốc và làm đũa trắng, cơ sở sản xuất sử dụng nhiều cách như sấy khô, dùng hoá chất. Sấy khô ít được sử dụng vì giá thành cao lại mất nhiều thời gian nên dùng hoá chất là cách phổ biến hơn. Trong đó, lưu huỳnh là chất dễ sử dụng bởi giá rẻ, dễ mua, cách làm đơn giản... Đũa dùng một lần khi khử bằng lưu huỳnh sẽ phóng thích ra sulfure dioxide. Để đũa có mùi thơm át mùi hoá chất, người ta bỏ thêm vào đũa ngũ vị hương tạo mùi. Ông Thịnh lưu ý: "Sản phẩm càng trắng thì càng độc bởi liều lượng hoá chất tẩy lớn. Nếu có nhà sản xuất nào đó sử dụng cả chất tẩy trắng, tẩy nấm mốc của bên công nghiệp để dùng trong lĩnh vực thực phẩm như sodium sunfite thì sẽ nguy hiểm vô cùng vì đây là chất khử rất mạnh". Vì đũa dùng một lần sử dụng trực tiếp, không qua bất kỳ giai đoạn rửa, hấp, tẩy nào nên nguy cơ hấp thụ hoá chất tồn dư trên đũa là rất cao.

Nhận diện đũa dùng một lần sấy lưu huỳnh rất dễ: bóc lớp nylông bên ngoài đũa đi sẽ ngửi thấy mùi hăng hắc rất khó chịu. Nếu có nhu cầu đũa dùng một lần, nên chọn loại đũa màu trắng ngà, không đốm đen, bao bì bảo quản không rách thủng, và mua ở những địa chỉ đã được giám sát về phẩm chất có uy tín.

NQ: Qua các nhận định của các nhà chuyên môn trên thì nguy cơ ẩn trong trong khi xử dụng đũa rất quan trọng, xin ý kiến của TS về việc gây ngộ độc do đũa có thể xảy ra cho người tiêu dùng thưa ông?

MTT:  Đũa biến chất dễ gây ngộ độc, và có thể đưa đến ung thư, thưa Cô. Những chiếc đũa hết hạn thường tích tụ nước trong các sớ đũa. Đối với các loại đũa gỗ hay đũa sơn dùng trong gia đình thường được rửa liên tục, nếu không bảo quản khô ráo, những chiếc đũa này sẽ trở thành mảnh đất màu mỡ cho các loại vi khuẩn như vi khuẩn hình kim và E.coli phát triển. Sau khi rửa, bỏ đũa vào trong tủ khiến sẽ khiến đũa bị biến chất và dễ gẫy nhanh hơn gấp năm lần.

Đũa biến màu phải thay ngay vì lúc này quá trình biến chất đã bắt đầu. Theo điều tra và kinh nghiệm dân gian, sau chu kỳ từ 3 đến 6 tháng, đũa bắt đầu có hiện tượng đổi màu. Lớp sơn bọc quanh đũa do tiếp xúc nhiều với nước và thức ăn nên bị bào mòn. Vậy nên sau thời gian dài sử dụng, nếu thấy đũa biến màu thì phải thay ngay vì lúc này đũa đã biến chất. Có hai nguyên nhân khiến đũa biến chất đổi màu là tiếp xúc với nhiệt độ cao trong quá trình nấu ăn và do vi khuẩn xâm lấn. Đũa biến chất thường có mùi chua và có các chấm mốc, đũa mốc tiết ra độc chất gây ung thư do hóa chất aflatoxin. Aflatoxin là loại chất độc gây ung thư gan và mang tới nhiều chứng bệnh nguy hiểm khác, ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Nguyên nhân gây độc thực phẩm cấp tính thường do các loại vi khuẩn, còn gây nhiễm độc mãn tính là một số nấm mốc độc thường có trong đậu phộng, bắp, khô dừa, có thể sinh độc tố aflatoxin rất độc hại, là nguyên nhân gây ung thư gan. Aflatoxin không bị phân huỷ ở nhiệt độ sôi thông thường (1000C) mà chỉ bị phân huỷ trên 1200C. Nấm mốc dễ phát triển sau vài ngày trên các loại đũa sử dụng cho các thức ăn thuộc họ đậu, ngũ cốc đặc biệt là đậu phộng.

NQ: Đó là nói về các loại đũa gỗ, còn đũa làm bằng kim loại hay inox thì có an toàn hơn không, thưa TS?

MTT:  Hiện nay trên thị trường, đũa inox đa số là hàng nhập lậu, không rõ nguồn gốc xuất xứ. Bên ngoài hộp đựng hoàn toàn là tiếng nước ngoài. Ngoài ra, phẩm chất và giá cả cũng rất khác nhau.

Theo TS Nguyễn Ngọc Phong - Trưởng phòng Nghiên cứu Ăn mòn và Bảo vệ Vật liệu Kim loại (Viện Khoa học Vật liệu), hạn chế của đũa inox là bị dẫn nhiệt nên không thể sử dụng để nấu ăn. Ngoài ra, khi dùng để ăn thức ăn nóng cũng dễ bị bỏng tay.

Các chuyên gia vật liệu cảnh báo tuyệt đối không được sử dụng đũa mạ inox vì nhằm giảm giá thành của sản phẩm, nhà sản xuất có thể sử dụng các chất mạ kém chất lượng, pha tạp chất hoặc không mạ lớp đồng. Trong quá trình sử dụng, chắc chắn gây nên những cọ xát cũng như việc đũa được sử dụng trong môi trường acid (chua, cay, mặn, ngọt) của thức ăn, sẽ khiến lớp mạ này bị bong tróc. Các chất mạ bằng kim loại nặng, nếu lẫn vào thức ăn, lâu ngày có thể tạo nên sự tích tụ kim loại nặng trong cơ thể, dẫn đến các chứng bệnh ung thư.

NQ: Như vậy làm thế nào để bảo quản đũa thường dùng trong nhà thưa Ông?

MTT: Trúc và các loại gỗ tạp là hai vật liệu thường được dùng để chế tạo đũa, và cũng là môi trường lý tưởng cho các loại vi khuẩn phát triển. Đũa biến màu sẽ bị biến chất, do thường xuyên sử dụng trong quá trình nấu ăn mà biến chất, và do lý do chính là bị vi khuẩn xâm lấn. Đa số đồ vật sẽ mốc trong vòng một ngày nếu không được rửa sạch sẽ.  Khi mua đũa về để xài, cần nên chú ý kỹ lưỡng về màu sắc ban đầu của đũa, nấu sôi đũa rồi để khô. Vì trong quá trình chế tạo, đũa rất dễ bị nhiễm khuẩn.  Có một số cách bảo quản đũa được các chuyên gia khuyên dùng. 

Khi rửa đũa, rửa nhẹ tay để tránh bào mòn lớp vỏ bên ngoài đối với các loại đũa sơn. Lớp màu vỏ đũa có thể không phải màu thật của nó. Khi nấu ở nhiệt độ cao, các hóa chất ở bên ngoài đũa dễ bị phân hủy, gây ngộ độc kim loại. Các kim loại nặng như chì, benzen và các chất gây ung thư hay dung mỗi hữu cơ khác có thể xâm nhập vào cơ thể con người, gây ngộ độc và thậm chí ung thư sau thời gian dài sử dụng. 

NQ: Xin cám ơn Ông về những thông tin vừa qua, vì thì giớ có hạn xin Ông đúc kết buổi hội luận hôm nay và có lời khuyên cho nào cho thính giả của Chương trình Tiếng Nói Da Vàng thưa Ông?

MTT: Qua câu chuyện trên đây, cùng với biết bao vấn nạn về an toàn thực phẩm của hàng tiêu dùng sản xuất từ TC, một số suy nghĩ sau đây có thể nói lên cung cách làm ăn của một hệ thống thống trị và quản lý đất nước theo cung cách xã hội chủ nghĩa. Đó là: 

-  Não trạng của người cộng sản trong ba quốc gia trên thế giới là TC, Việt Nam và Bắc Hàn vẫn không thay đổi dù họ có tiếp cận với Tây Phương hay đã gia nhập vào WTO trong tiến trình toàn cầu hoá;

 

- Họ chỉ tập trung vào việc phát triển để mong thu hồi mức lợi nhuận tối đa, không cần lưu tâm đến những luật lệ họ đã cam kết với thế giới cũng như sức khoẻ của con người, ngay cả chính người dân của họ;

 

 - Việc phát triển như trên là một phát triển không bền vững, một phát triển nghịch lý, phát triển chỉ phân bổ thành quả cho một thiểu số cầm quyền, còn tuyệt đại đa số người dân không được hưởng một phúc lợi nào do phát triển tạo ra cho xã hội.

 
Chúng ta, người Việt hải ngoại đã đến lúc cần phải đồng loạt giống lên tiếng nói để đánh thức lương tâm nhân loại trong việc phát triển nghịch lý hay phát triển âm của những quốc gia kể trên. Chính điều nầy đã tạọ thêm khoảng cách giàu-nghèo ở Việt Nam ngày càng tăng.

 

Làm được như thế tiến trình dân chủ ở Việt Nam có thể xảy ra nhanh hơn và tuyệt đại đa số người Việt trong nước có cơ may giảm bớt nỗi cơ cực do một chính sách phi nhân bản của cường quyền.

Xin hẹn Quý vị lần hội luận tới.

 

Mai Thanh Truyết

Hôi Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam (VAST)

 

​mt​

_____________________________________________________

Mai Thanh Truyết

http://maithanhtruyet.blogspot.com/

 

 T do là Ung dung trong Ràng buc

Hnh phúc là T ti trong ...Đau thương"Tuệ Hải

 "Every Generation needs a New Revolution". - Thomas Jefferson-


 

 

 
 
 
 
//////////////////////////////////////////////////