Sự Chuyển Dịch Ô nhiễm Từ Trung Quốc Vào Việt Nam

Mai Thanh Truyết

Trong những bài viết trước đây, chúng tôi đã trình bày về những huyền thoại và nghịch lý trong phát triển của Trung Quốc cũng như những sự lạm dụng môi trường có thể đưa đến những xáo trộn xã hội và chính trị trong tương lai. Việt Nam hiện đang rập khuôn theo Trung Quốc trong cung cách phát triển. Do đó, kết quả là trong hiện tại sức đề kháng của người dân ở hai quốc gia trên đã bắt đầu manh nha. Và cường độ phản kháng ngày càng tăng thêm.

Trước tình trạng phát triển ồ ạt và không có sự cân bằng giữa phát triển và bảo vệ môi trường, Trung Quốc đã tạo dựng song hành ngoài những thành quả kinh tế đã đạt còn có một tình trạng môi trường xuống cấp ngày càng tệ hại. Theo ước tính của các chuyên gia môi trường thuộc Chương trình Môi trường LHQ (UNEP), chi phí cần thiết để sửa chữa hay hạn chế những vấn nạn môi trường xảy ra trong quá khứ và hiện tại là 7% của ngân sách hàng năm của nước này.

Từ những sự kiện trên cùng với tình trạng môi trường ngày càng xuống cấp, người dân sống ở đồng quê, nông dân, những người chăn nuôi, trồng trọt... ngược lại không thừa hưởng được những phúc lợi đến từ phát triển mà phải chịu thêm nhiều thiệt hại do ảnh hưởng của môi trường. Cho nên, họ đồng loạt đứng lên đòi hỏi nhà cầm quyền Trung Quốc phải cải thiện và giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, đất đai, và nhất là nguồn nước mặt và nước ngầm.

Họ không còn gì để mất. Sự can đảm nhờ đó tăng lên cao. Điển hình nhất là cuộc nổi dậy của dân làng Huaxi, ngoại ô thành phố Dongyang, thuộc tỉnh Zejiang (Tứ Xuyên) vào tháng tư vừa qua. Cuộc nổi dậy chống lại cảnh sát hiện vẫn còn đang tiếp tục mặc dù nhà cầm quyền địa phương đã quyết định di dời khu sản xuất công nghiệp tại làng này. "Chúng ta hãy chiến đấu cho đời sống, cho sức khoẻ của con cháu của chúng ta. Chúng ta hãy bảo vệ ruộng lúa và vườn rau cải trong lành". Đó là khẩu hiệu và là một chứng liệu cho sự quyết tâm của dân làng Huaxi.

Trên toàn lãnh thổ Trung Quốc qua cuộc khơi mào của dân làng Huaxi đã bộc phát và trở thành một hiện tượng toàn quốc dù các vụ nổi dậy đã xảy ra từ hơn 10 năm qua, nhưng cường độ cũng như tầm ảnh hưởng không lan rộng và có tính cách quốc gia. Theo TS Li Lianjiang, chuyên gia chính trị học nghiên cứu về sự phản kháng của nông dân thuộc viện đại học Baptist Hong Kong, thì từ năm 1993 trở đi, trung bình có 10,000 vụ nổi dậy của người dân phản kháng nhà cầm quyền trên nhiều khía cạnh khác nhau.

Các cuộc phản kháng nầy được nhà cầm quyền Trung Quốc gán tên là "những xáo trộn công cộng". Con số này đã tăng bất ngờ trong năm 2004, lên đến 74 ngàn vụ, trong đó nông dân đứng lên để đòi hỏi cải thiện môi trường, được đền bù tương xứng trong các chương trình di dời nhà cửa, đất đai của người dân để xây dựng cơ xưởng kỹ nghệ quốc doanh hay cho ngoại quốc đầu tư.

Trở qua Trung Quốc, đứng trước tình thế trên, nhà cầm quyền trung ương dường như đang bị phân tâm trước việc giải quyết những yêu cầu môi trường của nông dân. Một là dựa trên nguyên tắc bảo vệ môi trường, và yêu cầu thiết yếu của người dân là chính đáng và cũng là một động cơ giúp nhà cầm quyền nhận thức rõ được nơi nào cần phải lưu tâm trước những sự lạm dụng môi trường của địa phương. Thứ nữa, sự lo ngại của trung ương về những bất ổn chính trị qua các vụ nổi dậy của nông dân. Do đó, tuỳ theo trường hợp, Trung Quốc vừa đàn áp nổi dậy vừa lắng nghe để giải quyết những vấn đề của người dân nêu ra.

Qua các sự kiện dồn dập trên, Trung Quốc đã thấy và đã thấy rất rõ áp lực của dân chúng ngày càng tăng thêm và tạo ra hai ảnh hưởng bất lợi chính cho việc phát triển quốc gia trong những ngày sắp tới. Đó là mặt xáo trộn xã hội và sự hạn chế đầu tư ngoại quốc qua sự xáo trộn trên.

Đứng về mặt xã hội, ngày càng có thêm nhiều chỉ dấu về các xáo trộn xã hội ở những nơi có khu công nghiệp hình thành. Các xáo trộn càng trở nên bạo động hơn trong việc tranh chấp đất đai của người dân vì được bồi thường không xứng đáng với giá trị đã có của người dân; cũng như việc đòi hỏi chính đáng của họ là các khu công nghiệp phải nghiêm chỉnh chấp hành quy định của luật bảo vệ môi trường trong sản xuất. Tiếc thay, trung ương không có biện pháp mạnh mẽ để giải quyết vần đề và Cơ quan Bảo vệ Môi trường Quốc gia không đủ quyền lực để sửa chữa những sai trái của địa phương. Do đó, tình trạng bấc ổn ngày càng lan rộng, báo hiệu cho một tương lai không mấy sáng sủa cho Trung Quốc trong những ngày sắp tới.

Trước sự gia tăng các cuộc phản kháng của người dân, những nhà đầu tư ngoại quốc nhất là trong kỹ nghệ hoá chất bắt đầu chùn bước trong việc thiết kế và đầu tư vào quốc gia này trong vài năm trở lại đây. Đối với những nhà đầu tư ngoại quốc họ rất chú tâm đến việc xử lý chất thải, rắn, và lỏng cũng như kiểm soát việc ô nhiễm không khí một khi đã xây dựng nhà máy tại quốc gia nầy. Do đó, với tầm nhìn chung, họ cũng mong mỏi các nhà đầu tư nội địa cũng phải đặt ngang tầm bảo vệ môi trường và sản xuất để hy vọng làm dịu bớt phản kháng của người dân.

Tuy nhiên các suy nghĩ tích cực trên không có cơ sở đứng vững trong trường hợp áp dụng cho Trung Quốc vì không thể nào có một sự bình đẳng trong việc áp dụng luật lệ môi trường giữa các công ty ngoại quốc và quốc nội. Chính vì luật môi trường Trung Quốc còn quá nhiều điểm mơ hồ (mà luật môi trường Việt Nam cũng chẳng khá gì hơn) cho nên cán bộ địa phương tuỳ tiện suy diễn và thi hành, nhất là khi có "thủ tục đầu tiên" của người bản xứ thì mọi trở ngại về giấy phép như thủ tục lập Biên bản tác động môi trường cho một cơ sở mới thành lập sẽ được thông qua dễ dàng cũng như giấy phép hoạt động. Do đó, các công ty ngoại quốc hiện tại rất e dè trong việc đổ thêm đầu tư vào quốc gia này.

Từ hai áp lực trên, cộng thêm sức ép quốc tế về công cuộc bảo vệ môi trường chung trước tiến trình toàn cầu hoá trên thế giới, Trung Quốc đã bắt đầu e ngại đầu tư ngoại quốc sẽ bị hạn chế. Thêm nữa với sư cạnh tranh kinh tế ngày càng quyết liệt giữa các nhà đầu tư nội địa, cũng như trước những nguy cơ tăng giá thành trong sản xuất vì các phụ phí phải chi cho việc xử lý phế thải đang được nhà cầm quyền Trung Quốc áp đặt, các nhà đầu tư Trung Quốc bắt đầu chuyển hướng quay sang đầu tư ở Việt Nam. Lý do chính để đầu tư ở Việt Nam là việc quản lý môi trưởng ở đất nước này còn quá lỏng lẻo, đa phần chỉ cần có "thủ tục đầu tiên" là mọi sự được thông suốt.

Tình trạng môi trường Trung Quốc hiện tại

Vào ngày 23/11/2005, Trung Quốc đã xác nhận một vụ nổ tại một nhà máy sản xuất hoá chất của một công ty hoá dấu và dầu khí Jilin, đã tạo ra một tình trạng ô nhiễm trầm trọng sông Songhua, nguồn nước chính cung cấp cho thành phố Thiên Tân với 9 triệu cư dân, thủ phủ của Hắc Long Giang ở miền Đông Bắc Trung Quốc. Cũng cần nên biết vụ nổ đã xảy ra 10 ngày trước đó, mà người dân địa phương hoàn toàn không được thông báo.

Hoá chất thải hồi vào dòng sông là benzene, nitrobenzene, và aniline là các hoá chất thường được dùng để chế tạo chất ổ, thuốc sát trùng, thuốc nhuộm. Được biết benzene và nitrobenzene có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Nếu tiếp xúc với benzene dài hạn có thể có nguy cơ gây ung thư và rối loạn nhiễm sắc thể. Hiện tại, dòng chảy đã bị ô nhiễm đã chảy ngang qua biện giới LB Nga, đổ vào sông và chảy ra biển Okhotsk gần Vladivostok.

Hiện tại Trung Quốc có 12 ngàn nhà máy hoá chất trên toàn quốc, trong đó 50% nhà máy được xây dựng trên hai dòng sông chính là sông Hoàng Hà và Dương Tử. Do đó nguy cơ xảy ra tai nạn từ những nhà máy này có thể xảy ra bất cứ lúc nào, và không một ai có khả năng tiên liệu được mức thiệt hại sẽ như thế nào. Đây là những quả bom nổ chậm cho đất nước này.

Qua những tai nạn đã xảy ra, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Quốc gia Trung Quốc vừa ra lệnh ngừng ngay 10 công trình xây dựng đường sá, nhà máy phát điện vì những công trình này có nguy cơ tạo ra ô nhiễm môi trường. Quyết định trên là một trong những quyết định cứng rắn của Trung Quốc, nói lên sức ép của dạn chúng về thảm học ô nhiễm môi trường trên đất nước này ngày càng tăng thêm sau 25 năm kỹ nghệ hoá.

Trên đây là một sự kiện điển hình, kết quả của việc phát triển kinh tế quốc gia không an toàn về mặt sản xuất cũng như bảo vệ môi trường của Trung Quốc làm ảnh hưởng đến các quốc gia lân cận. Điều này cho thấy Trung Quốc, một quốc gia đang chuyển mình để trở thành một cường quốc kinh tế quốc tế đang xuất cảng "ô nhiễm" cùng lúc với những mặt hàng do họ sản xuất.

Nhiều hiện tượng tương tự khác như nguồn nước ngày càng cạn kiệt, bị ô nhiễm trầm trọng, không khí không còn trong lành, chất thải độc hại từ những nhà máy, chỉ là một trong những vấn đề hàng ngày mà người dân Trung Quốc đang phải đối mặt. Môi trường sống ở Trung Quốc ngày càng xuống cấp và đã lây lan qua các quốc gia láng giềng.

Các nguồn bụi khói ô nhiễm từ Vân Nam đã bay sang tận miền duyên hải vùng Tây Nam Hoa Kỳ. Mứa acid xuống tận Nam Hàn và Nhật Bản. Đặc biệt là những dòng sông. Có gần phân nửa dân số trên thế giới sống trong những lưu vực sông ngòi phát nguyên từ Trung Quốc đang bị đe doạ với cơn khủng hoảng nước đã được mô tả trong một quyển sách nổi tiếng của Ma Jun dưới tựa đề: "China's Water Crisis". Tại một hội nghị ở Bắc Kinh vào tháng 11/2005, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Bao Xing phải thốt lên rằng: "Quốc gia nầy với tình trạng khủng hoảng nước

khốc liệt và khẩn cấp hơn mọi quốc gia khác trên thế giới".

Do đó, đã đến lúc Trung Quốc cần phải chọn lựa giữa sự tăng trưởng kinh tế hay có được một môi trường sạch hơn. Và lãnh đạo Trung Quốc đã xoá dần quan điểm "bảo vệ môi sinh" chỉ là sản phẩm của tư tưởng tiểu tư sản. Do đó, có nhiều chuyển biến trong việc phát triển của Trung Quốc.

Từ cuối thập niên 1990, Bắc Kinh đã ra lịnh cấm đốn cây trong hầu hết những khu rừng núi của họ, sau khi nhận ra rằng sự phá rừng là một yếu tố chính dẫn đến những nạn lụt, hạn hán lớn gây thiệt hại hàng tỉ Mỹ kim.Và

đi xa hơn nữa, lãnh đạo Trung Quốc đã bù đất nhu cầu gỗ trong nước bằng cách phá rừng ở các quốc gia Phi Châu, Miến Điện, và nhất là Việt Nam...để có thể giữ cương vị "cơ xưởng sản xuất của thế giới". Để đạt được danh hiện trên, nạn nhân gần nhất và chịu nhiều thiệt hại nhất là Việt Nam.

Sự chuyển dịch sản xuất

từ Trung Quốc sang Việt Nam

Tương tự như đa số các hãng xưởng sản xuất của Hoa Kỳ, từ hơn hai thập niên vừa qua, đã di chuyển cơ sở sản xuất về các quốc gia Mỹ La tinh, đặc biệt là Mễ Tây Cơ, vì ở những nơi này, nhân công rẻ mạt và luật lệ môi trường hầu như không được áp dụng. Tư bản Tây phương cũng hành xử tương tự là đổ xô vào Đông Âu, những quốc gia vừa thoát khỏi gông cùm Cộng sản như Ba Lan, Hung Gia Lợi. Trung Quốc cũng đang chuyển mình tiến về Đông Nam Á. Và Việt Nam là một trong những thí điểm lớn để cho tư bản Trung Quốc định cư.

Trước sự cạnh tranh kinh tế toàn cầu ngày càng gay gắt, việc hạ giá thành phẩm là việc làm ưu tiên để có thể chiếm lĩnh thị trường thế giới. Đó là chính sách chung của mọi quốc gia. Do đó, Việt Nam là một mảnh đất béo bở cho tài phiệt Trung Quốc đầu tư vì: - Nhân công còn quá rẻ, ngay cả đối với nhân công Trung Quốc vốn dĩ đã quá rẻ mạt; - Chi phí cho việc bảo vệ môi trường không bị đòi hỏi gắt gao như ở Trung Quốc hiện tại; - Và quan trọng nhất là mọi thủ tục hành chánh và dịch vụ xuất nhập cảng đều được dễ dàng vì cung cách quản lý địa phương ở Việt Nam dễ bị mua chuộc. Từ 3 yếu tố trên, Việt Nam đối với Trung Quốc có thể được ví như là Mễ Tây Cơ với Hoa Kỳ trong lãnh vực đầu tư và sản xuất.

Thêm một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho các nhà đầu tư Trung Quốc di chuyển xuống Việt Nam là Trung Quốc tìm thấy nơi đây một xứ sở giống như đất nước của họ, một đất nước đang chuyển mình từ từ và đang từ bỏ chủ thuyết cộng sản không tưởng để tiến tới một nền kinh tế thị trường tự do đầy hấp dẫn.. Còn về tâm lý chung của hai dân tộc, có nhiều điểm tương đồng chính nhất là việc quan hệ kinh doanh dựa theo cách tiếp cận có tính cách cá nhân và thường sử dụng quyền lực áp đặt để lấn át pháp luật hầu mang lại mọi dễ dãi trong thủ tục hành chánh.

Hảy nghe Zou Qinghai, Chủ tịch phòng Thương mãi Triết Giang tuyên bố:" Chúng tôi hiểu thông suốt rằng phải đưa tiền hối lộ mới xong công việc. Cách thức phát triển của Việt Nam chỉ đơn giản là một bản sao của Trung Quốc".

Hiện tại, tính đến cuối năm 2005, đầu tư của Trung Quốc chính thức vào Việt Nam tương đối còn khiêm nhường so với các quốc gia trong vùng như Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn là 734 triệu Mỹ kim so với hơn 50 tỷ của ba nước vừa kể trên. Nhưng qua những con số không chính thức có liên hệ đến những đối tác Hồng kông thì mức thẩm thấu vào Việt Nam có thể lên đến 3,7 tỷ. Và thương mãi hai chiều dự kiến trong năm 2006 là 7,5 tỷ Mỹ kim.

Các công ty Trung Quốc chú trọng đầu tư vào năng lượng và tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam. Trung Quốc đã ký thoả thuận trong việc thăm dò dầu khí ở vịnh Bắc Việt trong khi Hồ Cẩm Đào viếng thăm thủ đô Hà Nội vào tháng 10,2005. Việt Nam vẫn là một lợi điểm cho Trung Quốc vì hai quốc gia đã ký hiệp ước tự do mậu dịch với nhau. Từ đó, Trung Quốc có thể chuyển ngành dệt sang Việt Nam để tránh vấn đề hạng ngạch (quota) trong việc xuất cảng các sản phẩm này qua Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu.

Ảnh hưởng lên môi sinh Việt Nam

Như đã nói ở phần trên, Trung Quốc đã bắt đầu chuyển dịch các cơ sở sản xuất qua Việt Nam vì áp lực của luật ô nhiễm môi trường ở bản địa là chính. Các đầu tư di chuyển về Việt Nam cũng vì luật lệ ở đây nghiêm ngặt hơn qua việc bảo vệ môi trường ở một số khu vực tại Trung Quốc, đặc biệt ở các tỉnh ở miền duyên hải như Thượng Hải, Hong Kong, Triết Giang. Chính quyền ở những tỉnh này khuyến khích đầu tư ở Việt Nam đối với các công nghệ gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất như công nghệ thép, plastic, điện tử, hoá chất v.v... Cơ quan bảo vệ môi trường ở các tỉnh trên đã bắt đầu ngăn cấm và tước quyền sử dụng đất, nước, và điện của những cơ sở có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Đó cũng là một trong những lý do chính để các nhà đầu tư Trung Quốc xuôi Nam, một nơi có chi phí dùng trong an toàn lao động rẻ mạt.

Một việc làm không nhỏ ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam là việc nhập cảnh gỗ của Việt Nam. Năm 2004, Việt Nam thâu được 900 triệu Mỹ kim trong việc xuất cảng 2 triệu m3 gỗ, đa số là qua Trung Quốc. Năm 2005, mức thu nhập lên đến 1,5 tỷ Mỹ kim cho dịch vụ này. Với lượng rừng mất đi ước tính là 200 ngàn mẫu/năm, trong khi đó mức trồng rừng là 20 ngàn mẫu/năm, thiết nghĩ di hại của việc thất thoát rừng này ảnh hưởng đến nạn lũ lụt, hạn hán, đất đai bị hoang hoá v.v... có thể được bù đất so với mức ngoại tệ thu nhập qua việc xuất cảng gỗ này không?

Kết luận

Từ những nhận định và phân tích trên đây, quả thật Việt Nam đang phải hứng chịu nhiều hệ quả của việc bành trướng và phát triển kinh tế và kỹ nghệ của Trung Quốc. Tư thế của một đàn em Việt Nam trước một đàn anh nước lớn Trung Quốc cho đến nay vẫn là một sự thuần phục hoàn toàn. Thuần phục trong tư thế chính trị, quân sự lẫn kinh tế. Trung Quốc đã tạo được một sức ép quá mạnh trong ba lãnh vực trên, khiến cho Việt Nam luôn luôn đang ở thế bị động và không thể nào thoát khỏi tầm ảnh hưởng của ba gọng kền trên.

Giờ đây, Việt Nam lại mang thêm nhiều di hại về môi trường qua sự xuất cảng ô nhiễm của Trung Quốc. Môi trường Việt Nam vốn đã bị báo động từ nhiều năm qua, lại phải gánh chịu thêm "chất phế thải" của đàn anh Trung Quốc, liệu lãnh đạo Việt Nam có còn khả năng giải quyết các vấn nạn trên hay Đất và Nước Việt Nam sẽ đi đến sự huỷ diệt hoàn toàn trong một tương lai không xa?

Mai Thanh Truyết
//////////////////////////////////////////////////