Con Duong Di Den UBKHTP

Con Đường Đi Đến Ủy Ban Khoa Học Thành Phố

 

Ngay từ giữa năm 1976, sau khi giải tán cái gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, chấm dứt giai đoạn làm công cụ để lừa bịp ngưới dân Việt và thế giới, CS Việt nam bắt đầu lưu ý đến việc phát triển thành phố Sài Gòn. Thành ủy cho cán bộ tập kết từ miền Nam ra Bắc vào những năm 1954, cho đi du học ở Liên Sô để có cấp bằng Phó Tiến sĩ. Thành phần nầy được cho vào Nam trước hết và bắt đầu thực hiện và xây dựng nến móng ban đầu cho một cơ chế mới trong xây dựng và phát triển khoa học kỹ thuật.

Vì chính sách và chủ trương của người chiến thắng trong giai đoạn ban đầu (và cũng mãi mãi cho đến hiện tại) là đeo đuổi chính sách "quá độ" để tiến lên xã hội chủ nghĩa, cho nên họ phủ nhận tất cả những gì hiện có ở miền Nam như cơ sở vật chất và chất xám Nam kỳ trước 30/4/1975 nhằm hình thành một nền kinh tế theo mô thức tư bản nhà nước với một hệ thống phát triển và sản xuất theo quan điểm của cộng sản.

Bài viết nầy dựa theo lời kể của một nhà khoa học trẻ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã có "cơ duyên" tham dự ngay từ những ngày đầu tiên của Ủy ban Khoa học sau nầy.

Giai đoạn quân quản

Ngay sau khi tiến chiếm Sài gòn, CS Việt Nam bắt đầu thiết lập ngay chế độ quân quản cùng xử dụng một số "cách mạng nằm vùng" và "cách mạng 30/4" trong các công sở cùng những xí nghiệp công tư trong thành phố. Nhờ thế, họ có khả năng xây dựng lại cơ cấu hành chánh và quản trị từng nơi với những chỉ điểm của hai loại cách mạng trên. Việc quản lý nhân sự "cũ" cũng không mấy khó khăn cho họ, vì có những lời thêu dệt của hai loại cách mạng trên để "lấy điểm" của những hạng người "ăn cơm quốc gia mà thờ ma cs".

Thành quả ban đầu có thể kể đến trước hết là, hầu như tất cả những loại công xa của VNCH đều được chuyển về Bắc, thậm chí đến những máy phát điện thời Ấp chiến lược (thời cuối thập niêm 1950), và chiếc cầu Bến Lức cũng được "làm thịt" để mang về Bắc. Một chuyện đáng kể hơn hết là máy computer lớn IBM cũng được trang trọng lên tàu vượt tuyến…Nhưng kết quả sau cùng là những nguyên vật liệu kể trên biến thành một đống sắt vụn, các máy phát điện ở rải rác các quận huyện ngoài Bắc, còn máy IBM không biết hiện giờ nằm ở góc xó nào?

Qua vài hình ảnh kể trên để người đọc nhận định được chánh sách ban đầu của Ban Quân quản. Còn đối với trong Nam, tất cả hầu hết các phương tiện sản xuất từ lớn tới nhỏ đều bị tịch thu và chủ nhân những cơ sở nầy đều bị đi "cải tạo" (tù). Người viết có dịp được nghe qua lời kể của một cán bộ đã từng giữ vai trò cao nhứt nước là trong thời gian nầy, có một "nhà máy" sản xuất thắng xe đạp (phanh xe đạp) là một căn nhà rộng 5 x 25 thước, công nhân gồm hai vợ chồng và gia đình đứa con gái…Máy móc gồm một máy dập nhôm phế thải thành nhôm thỏi, thu mua được từ các "nhà" thu mua "lạt son, ve chai, và kim loại"..Một máy khác là máy ép thành các hàm thắng nhôm.

Chỉ giản dị như thế mà sản xuất được hàng loạt sản phẩm cung ứng cho thị trường thành phố Sài Gòn và các tỉnh. Trong lúc đó, ngoài Bắc có một xí nghiệp quốc doanh làm phanh gồm nhiều trăm nhân viên nhưng hàng xuất xưởng bị quá nhiều "sự cố" về phẩm chất! Khi chiếm được cơ sở sản xuất trong Chợ Lớn trên, việc tiếp thu và quản lý gồm tổ công đoàn, tổ chị nuôi, tổ hành chánh, tổ sản xuất, tổ an ninh….gồm hàng trăm nhân viên….nhưng cuối cùng không một thành phẩm nào được ra đời sau đó cả.

Đó là một sự thật, và tình trạng nầy tương tự như hầu hết tất cả những xí nghiệp đã được quân quản "tiếp thu".

Và giai đoạn thành hình và tiến tới việc thành lập Ủy ban Khoa học Thành phố cũng không là một ngoại lệ, xin được mô tả dưới đây.

Trạm Sản xuất Thí nghiệm

Vào khoảng tháng 6, 1976, một nhà đòn nằm ở ngã tư đường Đề Thám và Cô Bắc đã bị trưng dụng. Một Phó tiến sĩ người miền Nam tập kết, NCKhanh (mất năm 2003), bắt đầu giai đoạn tìm kiếm nhân sự khoa học của miền Nam cũ để mời hợp tác. Một số giáo chức đại học và kỹ sư các công ty từng làm việc trong khu kỹ nghệ Biên Hòa được tiếp xúc tham gia hợp tác. Và, Trạm Sản Xuất thí nghiệm ra đời tại địa điểm trên.

Cũng cần ghi nhận là tầng lớp khoa học của miền Bắc trong giai đoạn chiến tranh được huấn luyện ở Liên Sô thời bầy giờ. Việc đỗ đạt Phó Tiến sĩ cũng như cung cách và chương trình đào tạo thiết nghĩ không cần phải bàn nơi đây vì có thể nói 100% "thực tập sinh" du học ở Liên Sô sau khi tốt nghiệp về không biết nói tiếng…Nga!

Choáng ngợp trước sự phát triển của VNCH, sau khi vào Nam, họ càng thể hiện một thái độ tự đắc của người chiến thắng để hầu mong che đậy một mặc cảm tự ti trong tiềm thức.

Do đó, họ bắt đầu đi "săn lùng" nhân sự khoa học có tầm vóc của chế độ VNCH và được biết đến trong thành phố. Công việc trong giai đoạn nầy của Trạm là đi "tiếp thu" các cơ sở sản xuất hay nhà cửa của những người đi di tản trước đó hay các nhà bị đánh tư sản "mại bản". Chỉ một thời gian ngắn sau, địa điểm số 208 Hùng Vương được biến thành một tổ thí nghiệm sản xuất đầu tiên của Trạm. Đó là Tổ Hữu cơ do một giảng nghiệm trưởng Trần Văn Long của ban Hóa học ĐH Khoa học Sài Gòn đảm nhiệm (hiện ở Montréal).

Vài tháng sau, địa điểm số 101 Đường Nguyễn Du, một biệt thự của một kiến trúc sư nổi tiếng thời VNCH, được trở thành Văn phòng của Trạm và Trạm được đổi tên thành Trung Tâm Nghiên Cứu Sản Xuất Thử.

Các địa điểm kể ra sau nầy lần lần được thành lập theo thứ tự thời gian như:

  • Tổ Muối, nằm trên đường Hùng Vương do một cựu Đại tá VNCH, Nguyễn Văn Sâm  làm tổ trưởng;
  • Tổ Đá Quý năm trên đường Phan Thanh Giản gần ngã bảy Lý Thái Tổ do ngưới con rễ của vị Đại tá trên;
  • Tổ nấm mốc nằm trên đường Gia Long, là dược phòng của Giảng sư ĐH Khoa Học Sài Gon, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sương làm Tổ trưởng;
  • Tổ Cơ khí nằm gần cầu Băng Ky, Gia Định do một kỹ sư của công ty Đường Việt Nam, Mai Thanh Tra làm Tổ trưởng;
  • Tổ dược phẩm nằm ở số 4 đường Tự Đức. Đây là viện bào chế của dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều cũ. Tổ nấy do một tiến sĩ du học ở Hoa Kỳ (không nhớ tên, hiện ở San Jose) về nước trước 1975 đảm nhiệm;
  • Địa điểm 15 đường Nguyễn Gia Thiều được xử dụng như một nơi tập hợp chuyên viên do một anh Phó TS người miền Nam tập kết làmTổ trưởng;
  • Và sau cùng địa điểm ở góc đường Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ bây giờ) và Đoàn Thị Điểm  là trụ sở của Ủy Ban Khoa học Thành phố từ năm 1980 cho đến ngày nay.

Qua các phát triển cơ sở vật chất như trên và dưới chính sách kêu gọi sự hợp tác của các nhà làm khoa học cũ, những sĩ quan biệt phái phải đi học tập, Thành ủy lúc bấy giờ do Võ Văn Kiệt nắm giữ đã cho ra Nghị quyết 36/TpHCM trong đó đưa ra chính sách bảo lãnh những nhà khoa học trên trong các trại "học tập" ra "phục vụ" trong các chương trình phát triển thành phố kể trên.

Để có một khái niệm về sản xuất và thí nghiệm trong phát triển theo quan điểm của người cộng sản Việt lúc bấy giờ, chúng tôi xin ghi lại các phần nhiệm của các Tổ kể trên cũng như một số dự án đã thực hiện.

Tổ Hữu Cơ

Tổ nầy nhằm mục đích khai triển các dự án dưới hình thức pilot tức sản xuất nhỏ. Các dự án sau đây đã được thực hiện:

  • Sơn bóng Verni Urethane do TS Chu Phạm Ngọc Sơn làm chủ dự án dựa theo luận án tiến sĩ của ông ở Hoa Kỳ. Nơi đây đã sản xuất được những mẻ verni bóng để làm mẫu;
  • Dự án khai thác bentonite do TS Chu Phạm Ngọc Sơn và Trần Kim Thạch. Dự án căn cứ vào tính chất hấp thu (absorption) dầu của đất sét bentonite được tìm thấy ở vùng Thái Mỹ, nằm trên ranh giới tỉnh Tây Ninh và Tân An. Nhóm địa chất của tổ nầy đã đi khoanh vùng và ước tính trữ lượng của Bentonite ở nơi đây. Sau đó, khai thác đất sét, mang về Tổ để tách rời bentonite nguyên chất bằng phương pháp rữa sạch và ly tâm. Đất bentonite tinh chất nầy được xem như là một phụ gia trong việc chế biến xà bông gọi là xà bông bentonite, dùng để tẩy rửa trong các hảng xưởng hay bịnh viện. Đã sản xuất thử và xử dụng;
  • Dầu thông: Một phương án đã được áp dụng là khai thac dầu thông, térébenthine, và colophane ở Tùng Nghĩa, các Thị xã Đà Lạt khoảng 30 Km, bằng cách chưng cất cây thông trong vùng. Dung dịch sau khi chưng cất có tính acid (acetic acid) và còn lại mốt số dư lượng của dầu được tận dụng qua sang kiến của một giáo chức trẻ lúc bấy giờ, để làm thuốc xức ghẻ "bộ đội". Số là, vì thiếu ăn và vì điều kiện vệ sinh của môi trường nước và không khí kém, cho nên sức miễn nhiễm và đề kháng của người dân Sài Gòn giảm thiểu rất nhanh. Do đó, dễ bị nhiễm độc vào những chỗ hiểm yếu của cơ thể như lòng bàn tay, bàn chân, kẻ tay, dưới nách v.v…Vào thời đó, những loại thuốc khử trùng thông thường như teinture d'iode hay mercurochrome hầu như biến mất. Trong một buổi đi thăm biệnh viện Da Liễu đường Bà Huyện Thanh Quan, vị giáo chức trẻ kia đề nghị dùng nước chưng cất để trị bịnh. Và đề nghị trên đã được chấp thuận cũng như các bình chứa bằng chai lấy được ở hãng dầu khuynh diệp bác sĩ Tín, đã được chuyên chở từ Tùng Nghĩa về bịnh viện và trị liệu các chứng bịnh "thời đại" trên. Từ đây, chàng giao chức trẻ kia có được danh xưng là Ông Kỹ sư thanh niên do chính Võ Văn Kiệt đặt cho;
  • Ngoài ra còn có hai dự án không nằm trong Tổ Hữu Cơ là dự án tinh chế Hà thủ ô và tinh chế étoile d'anis (đại hồi). Số là sau khi trưng dụng cộng ty BGI ở đường Hai Bà Trưng và Tăng Bạt Hổ. Nước xá xị Con Cọp được điều chế bằng mùi của hột hồi. Hột đại hồi nầy mọc rất nhiều ở tỉnh Hoàng Liên Sơn trên độ cao trên 3.000 thước. Ngoài Bắc không có khả năng để ly trích hột hồi nầy. Do đó, sau khi xử dụng hết lượng nguyên liệu hồi còn lại của hảng BGI, cần phải có dầu hồi để sản xuất xá xị. Ông Thanh niên được mời gọi đảm nhiệm công cuộc lý trích trên. Dầu hồi là một loại dầu có tỷ trọng chỉ nhẹ hơn nước (d = 1.00) một ít (d = 0.96) và có tính thăng hoa (sublimation) rất cao. Do đó, nếu chưng cất quá nóng dầu sẽ biến thành khí và bay đi mất. Trong thời gian sản xuất dầu hồi, Ông Thanh niên được dịp để làm ra rượu khai vị (aperitif) Anis (giống như rươu Pernot của Pháp) để biếu bạn bè, cũng thơm và có vị ngọt như rượu nhập cảng từ Pháp vì khi cho nước đá hay pha thêm nước thì dầu hồi trở thành một dung dịch đục như sữa vậy.
  • Còn dự án tinh chế hà thủ ô có lịch sử như sau: Ở trại học tập Trảng Lớn, "học tập viên" khám phá rất nhiều dây hà thủ ô trong rừng (đừng hy vọng tìm được củ Hà thủ ô giống như trong chuyện kiếm hiệp vì củ hà thủ ô nằm rất sâu trong lòng đất có thể trên 9, 10 thước và lâu năm). Đặc tính của cây hà thủ ô là tăng cường sinh lực và làm cho tóc đen. Việc ly trích hà thủ ô cũng giống như ly trích hột hồi ở trên, nghĩa là dùng nhiệt độ thấp vừa đủ làm cho nước sôi (đun dộ 1200C). Dầu hà thủ ô sẽ chảy qua một ống xoắn serpentin có đường kính nhỏ độ 5 mm, sau đó được làm lạnh lại trong nước. Hà thủ ô kết tinh lại dưới một dạng dẻo. Hà thủ ô ngâm với rượu là một loại thuốc bổ, chỉ cần mỗi tối trước khi đi ngủ, uống một ly nhỏ là bạn có thể có một giấc ngủ dài ngon giấc. (Chúng tôi không dám lạm bàn đến sức tăng cường sinh lực của hà thủ ô ở đây).
  • Nhà máy sản xuất ammoniac: Vào giữa năm 1974, TS Hoàng Cơ Định và KS Lâm Văn Giản đã hợp tác và xây dựng một nhà máy sản xuất ammoniac ở Bún, trên đường lên Thủ Dầu Một. Ông Thanh Niên cũng giữ phần nhiệm nghiên cứu để hy vọng xem có thể xử dụng được hay không? Qua quan sát trực diện, nhà máy chỉ mới xây dựng khung nhà ban đầu và hai bồn chứa bằng xi măng…cho nên không cần phải tái cấu trúc lại để xử dụng vì quá tốn kém và ở một địa điểm không thích hợp cho sản xuất, cũng như nguồn điện và nước cần thiết, và phương tiện chuyển vận.

Tổ Muối

Muối là một loại thự phẩm tuy đơn giản nhưng rất cần thiết cho nhu cầu ăn uống của người dân cũng như trong nhiều công trình sản xuất khác. Ở những năm đầu tiên sau 30/4, muối bị khan hiếm trầm trọng. Người dân không có đủ muối để ăn và giá cả trên thị trường tương đối cao hơn so với các thức ăn khác.

Tổ muối được thành lập và dùng phương pháp tẩy rửa và ly tâm để tách muối hột từ các ruộng muối ở các tỉnh ven biển thành muối "bọt" trắng và sạch. Tổ nầy đã đi vào sản xuất thường xuyên và có thể sản xuất vài tấn muối hàng ngày.

Tổ Đá Quý

Gồm một nhóm chuyên viên địa chất đi thăm dò các mỏ đá quý ở khắp nơi rồi mang về dùng cưa, đục để tách đá quý thô. Sau đó, mài, giũa…để làm những món hàng trang sức. Chính cơ sở nầy là một bàn đạp ban đầu cho một thành viên của VVK thành lập một công ty đá quý ở Singapore sau nầy.

Tổ Nấm Mốc

Đây là một tổ đặc biệt có cơ sở vật chất tương đối quy cũ vì là một dược phòng sản xuất thuốc tây và có phòng thí nghiệm được khử trùng. Đã sản xuất được meo làm nấm mèo (mộc nhĩ) và nấm rơm. Tổ đã thực hiện hướng dẫn và bày bán cho dân chúng. Meo được chứa trong những chai nước biễn cũ và được khử trùng trước khi tung ra thị trường. Năng suất rất cao, nhứt là nấm mèo. Thay vì dùng cây so đũa (có đường kính nhỏ) để "gieo meo", người dân được hướng dẫn dùng bất cứ loại cây nào có mủ trắng như xoài, mít, nhứt là cây cao su già. Người kể lại đã từng thí nghiệm và nhận thấy năng suất rất cao, các tai nấm mèo to như bàn tay của một người trưởng thành và dầy cơm. Nấm mèo nếu ăn khi còn tươi rất mát và dòn.

Tổ Cơ Khí

Đây là một tổ có nhiệm vụ "chế tạo" ra những máy móc dùng trong các dự án của các tổ khác như các máy ly tâm, máy chưng cất, máy cắt, máy dập v.v…tận dụng tất cả máy móc cũ và nguyên liệu thu thập tư các nơi qua những chiến dịch đánh tư sản mại bản…Tổ nầy tương đối thành công trong các kế hoạch sản xuất.

Tổ Dược Phẩm

Tuy đây cũng là một cơ sở sản xuất dược phẩm, nhưng không được tận dụng. Và chỉ làm văn phòng cho một số chuyên viên kỹ thuật chưa được phân công. Nơi đây cũng có một phòng thiết kế có nhiệm vụ vẽ sơ đồ và các đồ án kỹ thuật dự kiến thành lập trong tương lai.

Tổ Chuyên Viên

Đây cũng là nơi quy tụ nhiều "quần hùng" (chuyên viên đi "học tập" về) chưa được phân công cụ thể ngoài công việc tư vấn lặt vặt và "đấu láo" với nhau, đa số đều bị đặt trong tình trạng lo sợ bị đày đi các vùng kinh tế mới.

Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Thành phố

Địa điểm nầy đã được trưng dụng vào khoảng 1980. Và một số "cán bộ" khai phá ban đầu đã được điều động đi nơi khác. Và các"cán bộ" lãnh đạo sau nầy và mãi đến hôm nay (2011) là những người miền Bắc vào chiếm lĩnh. Ủy ban Khoa học ngày hôm nay chính là bộ mặt khoa học của thành phố Sài Gòn.

Còn một vài sự kiện quan trọng khác cần kể đến trong thời gian khai phóng của Ủy ban Khoa học Thành phố là:

Hội đồng Kinh tế Kỹ thuật Thành phố do chính Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải làm Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Người kể chuyện đồng thời cũng là Thơ ký Hội đồng, có nhiệm vụ nghiên cứu tính khả thi của các dự án và trình bày trước hội đồng trong khi xét duyệt, nên biết khá rõ. Các buổi duyệt xét diễn ra ở một villa trên đường Đoàn Thị Điểm gần Tú Xương, trước kia là Thư viện Hoa Kỳ.

Triển lãm Đệ nhứt chu niên thành lập Trung Tâm Nghiên Cứu Sản xuất Thử: Sau một năm hoạt động, Trung tâm cố gắng thực hiện những thành quả để trình làng tại trụ sở 101 Nguyễn Du. Công việc thu góp thành phẩm, sản phẩm cũng được giao cho Ông Thanh niên đãm trách. Và một người phụ tá đắc lực nhứt trong công tác nầy là một giáo chức trẻ, hiện là một luật sư ở San Jose. Ngày triển lãm do Tướng Võ Nguyên Giáp khánh thành vì ông là Chủ tịch Ủy ban Khoa học nhà nước trong giai đoạn nầy. Cần phải nói thêm nơi đây là những thành quả kể trên tuy không có "là bao" so với thời kỳ sản xuất của VNCH, nhưng vẫn được khen ngợi là những bước "đột phá vĩ đại" của thành phố vừa được "giải phóng"!

Khôi phục nhà máy bột ngọt Vị hương tố: Đây là một công trình quan trọng đã được chính VVK điều động là bằng mọi giá phải khôi phục lại nhà máy. Có hai toán làm việc: Toán thiết kế và cơ khí có nhiệm vụ kiểm soát lại máy móc, các ông dẫn và các bồn chứa cũng như rà soát quy trình sản xuất sẳn có. Toán nầy do NVS (còn gọi la S. Râu, hiện còn ở Việt Nam) và MTT (ở Davis, CA) và – Toán thứ hai là toán chuyên viên vi sinh gồm BS Trần Văn Ái, nguyên Giám đốc Viện Pasteur VNCH, TS Phạm Văn Hai, và người kể chuyện. Nhà máy Vị hương tố nằm ở Bình Đông gần các chà gạo do người Tàu quản lý. Toán vi sinh có nhiệm vụ khôi phục lại hai chai chứa men được mang từ Hong Kong về Sài Gòn ngày 23/4/1975. Nhà máy dựa theo phương pháp vi sinh, nghĩa là cấy men trong môi trường bột tạo ra sự lên men và quá trình sau cùng là bột ngọt dưới dạng dung dịch là MSG hay Mono Sodium Glutamate. MSG lỏng sẽ qua các hệ thống ly tâm và kết tinh để cho ra MSG dạng bột màu trắng. Cũng cần nói ra đây, là người Tàu không muốn nhà máy chứa nhiều men giống, cho nên chỉ gửi 2 chai men hàng tuần qua Hàng không Việt Nam thời bấy giờ mà thôi. Trên nguyên tắc, qua quá trình lên men với men còn "tươi" thì một lít dung dịch sẽ cho ra độ 80 đến 100 gram MSG bột. Nhưng vì con men đã để quá lâu trong ngăn đá cho nên những mẻ đầu tiên chi cho ra năm xuất khoảng 30 gram mà thôi. Thêm nữa, nạn tham lam của cán bộ trong giai đoạn nầy (có lẽ vì còn  nghèo đói) cho nên những mẻ đầu tiên thay vì được chuyển qua dạng bột, "họ" lại báo cáo là hư…để từ đó chuồn ra ngoài thị trường dưới sản phẩm rất cần thiết cho giai đoạn nầy là ….xì dầu. BS Ái và TS Hai được VVK giữ lời hứa là cho đi chính thức sang Pháp ngay sau khi khôi phục nhà máy xong. TS Hai sau mầy mất tại Hoa Kỳ vào năm 2006. Còn người kể chuyện không được đi chính thức đành phải vượt biên sang Hoa Kỳ sau đó.

Qua các sự kiện liên quan đến việc thành lập Ủy ban Khoa học Thành phố ngày hôm nay, chúng ta rút tỉa được bài học gì?

Những suy nghĩ tiếp theo đây là của người viết và xin được chia xẻ với quý bạn, hy vọng từ đó gợi ý cho sự phát triển bền vững, ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hoá của Việt Nam trong tương lai.

  • Trước hết, trong giao đoạn giao thời, mọi tiếp cận và đối thoại của người cầm quyền và giới chuyên viên của miền Nam còn nhiều cản ngại. Cản ngại trong cung cách cư xử qua sự say men của kẻ chiến thắng. Từ đó, đa số giới chuyên viên không dám hay không muốn đề nghị một phương cách phát triển nào cả, mà chỉ "làm việc" trong tâm trạng thụ động và cầu an. Dĩ nhiên, vẫn còn có một số trí thức 30/4, cố ráng cầu cạnh để mong được "cấp trên" đoái hoài đến. Và họ đã lầm và đã phải trả một giá rất đắt là sự khinh bỉ của bè bạn khắp nơi.
  • Cũng vì là buổi giao thời và ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, Việt Nam bị cấm vận cho nên nguồn nguyên vật liệu không còn nữa, cho nên không thể sản xuất và phát triển các dự án trong khả năng và tầm tay của tầng lớp khoa học của VNCH cũ.
  • Lớp cán bộ miền Bắc không tin tưởng thực sự những người làm khoa học trong Nam. Sự khác biệt về trình độ và nhận thức khoa học không theo kịp đà tiến bộ của thế giới khiến họ bị mặc cảm dù họ thuộc thành phần lãnh đạo.
  • Tình hình an ninh trong nước thời bấy giờ dưới nhản quan cộng sản, khiến cho họ cần tập trung tầng lớp trí thức khoa học để dễ kiểm soát hơn là thực sự khai thác khả năng của anh em trí thức trong Nam.
  • Trong những năm hoạt động đầu tiên nầy, Ủy ban đã có một tập hợp trí tuệ hơn 100 nhân sự tốt nghiệp ở Việt Nam (VNCH), Pháp, Úc, Đức, và Hoa Kỳ… và tuổi trung bình vào khoảng 30 đến 40, tuổi của sáng kiến, năng động và tinh thấn đóng góp cao độ. Nếu so sánh với các thành quả thu hoạch được trong giai đoạn nầy có thể nói là không có hiệu quả kinh tế so với thành phẩm sản xuất. Lý do tâm lý có thể là lý do quan trọng nhứt trong cung cách cư xử giữa hai đối tác như đã kể trên mặc dù một số trí thức trẻ vẫn còn mang tinh thần tích cực trong đóng góp.

Với những điều kiện thuận lợi trong việc tập hợp ban đầu như thế, nhưng tại sao tầng lớp nầy lần lượt bỏ đi, không tiếp tục hợp tác với chế độ trong công cuộc phát triển Việt Nam?

Câu trả lời chung quy gồm các lý do có thể tóm lược sau đây:

  • Điều kiện và các cơ sở vật chất là những cơ ngơi chiếm đoạt trong quá trình "đánh tư sản" hay được "dâng hiến", do đó, không thích ứng cho bất cứ một dự án sản xuất nào cả vì thiếu máy móc và nguyên vật liệu.
  • Thành phố không có chương trình hành động hay kế hoạch phát triển…ngoài việc thấy đâu làm đó. Lãnh đạo nghe "báo cáo" nơi nầy, nghe rĩ tai nơi nọ…rồi từ đó "chỉ thị" lên phương án làm việc. Các "chuyên viên" chế độ cũ từ đó mà …viết dự án, thiết kế nhà máy…nhưng tất cả chỉ trên giấy tờ…để có số liệu mà báo cáo lên…trung ương (!)
  • Chính sách đãi ngộ đối với trí thức quá bạc bẽo nếu không nói là những lời khuyến dụ hào nhoáng bề ngoài không thuyết phục được họ, dù lãnh đạo các cấp của CS cố gắng đem tình tự quê hương để khêu gợi lòng yêu nước của họ.
  • Trong số trí thức tập hợp được trong giai đoạn nầy, vẫn còn có nhiều anh chị có những suy nghĩ hết sức tích cực là cho dù người cộng sản mang đi các thành phẩm sản xuất được về Bắc, thì ít ra cũng còn lại một số ít để lại cho miền Nam dùng, may ra trong số ít người được hưởng đó có bà con mình. Ý tưởng tích cực đó, theo thời gian lần lần bị thui chột trong tâm trí những trí thức trẻ. Và quyết định sau cùng của họ là đành phải liều mạng bò nước ra đi dưới nhiều hình thức như vượt biên, vượt biển hay đi đoàn tụ nếu có điều kiện.

Còn bây giờ, sau gần 26 năm rút kinh nghiệm, Ủy ban Khoa học Thành phố đã thực hiện được những gì?

Việt Nam cho đến nay vẫn theo chính sách phát triển Việt Nam trong cơ chế thị trường nhưng phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một cơ chế đã được cổ súy hàng 36 năm qua, nhưng xin thưa, có thể nói một cách khẳng quyết rằng, ngay cả những người hoạch định chính sách ở cấp cao nhứt nước, vẫn không thể nào triển khai hay giải thích có tính cách thuyết phục cả. Điều đó có nghĩa là chính sách trên chỉ là sản phẩm của một số não trạng đã bị đóng băng trong kinh điển cộng sản nửa vời.

Vì vậy, Đất và Nước ngày hôm nay phải gánh chịu biết bao dự án bị bỏ dở nửa chừng hay dự án treo, hàng loạt "đại công ty", đại doanh nghiệp quốc doanh như Vinashin, Cty Dầu khí, Điện lực, Hóa dầu Dung Quất, v.v…lần lượt khai phá sản và để lại gánh nặng cho "Nhà nước", chính là "cha đẻ" của những đại công ty trên!

Hơn 25 năm mở của tiếp thu văn minh và kỹ thuật cùng công nghệ tân tiến trên khắp thế giới, đã tiếp nhận biết bao viện trợ khắp nơi, thế mà, Việt Nam vẫn không thoát khỏi cảnh nghèo đói. (Danh xưng của UBKHTP ngày hôm nay là Department of Science, Technology, and the Environment of HCM City (DOSTE), 244 Dien Bien Phu – District 3- HCM City- Vie Nam, tel# 84-8-8242-709)

Vì đâu nên nỗi!

Kết kuận…không lời kết

Nhớ lại, dưới thời cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm, chính sách cấm 14 ngành nghề mà người Trung Hoa không được nắm giữ trong đó có nhiều ngành dự phần vào việc phát triển kinh tế quốc gia. Cấm cản nhưng không có chính sách thay thế cho nên kinh tế miền Nam trong giai đoạn nầy bị điêu đứng một thời gian. Cấm cản nhưng không giam cầm người Hoa.

Để đối lại, chính sách triệt hạ tư sản "mại bản" của những người nắm quyền bính ngay những ngày đầu sau 1975 tạo ra một sự khủng hoảng toàn diện. Đất nước kiệt quệ thậm chí người dân không đủ gạo để ăn! Và đại đa số những tư bản Tàu và Việt có khả năng "làm kinh tế" trong các dịch vụ sản xuất và phát triển quốc gia hầu hết đều bị cầm tù cho nên tất cả đều bị khựng lại.

Sau cùng danh từ "thời kỳ quá độ" đã được rêu rao ầm ĩ trong những nằm đầu…đã đi vào quên lãng. Vì sao? Vì mãi đến hôm nay, 36 năm qua, chính sách phát triển Việt Nam cũng vẫn còn nằm trong…thời kỳ quá độ theo định nghĩa lúc ban đầu.

Phải chăng đây là một chính sách không văn bản nhằm mục đích "cào bằng" sự "giàu sang" của miền Nam ngang hàng với mức nghèo đói của miền Bắc?

Những sự kiện đã được nêu ra trên đây là lời người kể chuyện về những chuyện đã xảy ra vào những năm đầu tiên sau 30/4 cho đến giữa kế hoạch ngũ niên của Việt Nam lần thứ hai. Hiện tại, sau 26 năm mở cửa, tình trạng phát triển Việt Nam vẫn không thay đổi:

Phát triển có kế hoạch trên chỉ giấy tờ, nhưng trên thực tế là một sự phát triển…vô kế hoạch. Việt Nam vẫn không "tiêu hóa" được tinh thần của việc thiết lập khu chế xuất nhằm mục đích tiết kiệm năng lượng, tận dụng nguyên vật liệu, phó sản và phế phẩm để thực hiện một dây chuyền liên hoàn sản xuất, chứ nào phải đâu là nơi tập trung của một số nhà máy sản xuất "hổ lốn" như trong hơn 80 khu chế xuất hiện tại trên khắp miền đất nước.

Gánh nặng nhân sự của bộ máy quốc doanh làm trì trệ quốc gia và không phát triển bền vững được vì vẫn còn chính sách hồng hơn chuyên thể hiện đâu đó trong các dự án hay kế hoạch.

Và kết quả sau cùng hiện tại là môi trường đã bị ô nhiễm có thể nói là không còn phương sách nào có thể cứu vãn được từ không khí, đất, nước mặt và nước ngầm.

Vì vậy, để kết luận, người viết xin trích đoạn bài viết ngắn của TS Nguyễn Quang A để mỗi người trong chúng ta cùng suy nghĩ cho chính sách xây dựng quốc gia và trồng người của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Chất lượng nhân lực của nơi phát triển nguồn nhân lực?  Nguyễn Quang A

18/05/2011 12:11:10

- Ngày 19/4/2011, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ký Quyết định 579/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 – 2020 có hiệu lực từ ngày ký. Ngày 30/4, Công báo đã đăng toàn văn Quyết định có tên hết sức quan trọng này.

 Người ta quan tâm đến các chi tiết như: Phấn đấu đến năm 2020 đạt được một số chỉ tiêu chủ yếu phát triển nguồn nhân lực là: tỷ lệ lao động qua đào tạo là 70%; Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề là 55%; Số sinh viên đại học - cao đẳng là 400 sinh viên/10.000 dân; Có hơn 10 trường dạy nghề và trên 04 trường đại học đạt đẳng cấp quốc tế. Chỉ tiêu nâng cao thể lực nhân lực, phấn đấu tuổi thọ trung bình của lao động là 75 tuổi, chiều cao trung bình của thanh niên là 1,65m, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi nhỏ hơn 5%.

Quyết định 579/QĐ-TTg cũng nêu rõ, "thông qua Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam 2011-2020".

Thế rồi ngày 17/5/2011, trang tin điện tử của Chính phủ lại đưa tin "khẩn trương hoàn thiện Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực 2011-2020". Bản tin này còn cho biết, "bản Quy hoạch còn xuất hiện nhiều số liệu tổng hợp chưa cập nhật, trùng lắp, cách sắp xếp, bố cục còn dài và chưa khoa học. Các mục tiêu đề ra còn chung chung, chưa chỉ ra được định hướng và giải pháp cụ thể".

Thật chẳng hiểu ra sao? Gần một tháng trước Quyết định phê duyệt chiến lược khẳng định "thông qua" Quy hoạch, nay lại bảo "khẩn trương hoàn thiện". Chẳng lẽ, ngày 19/4 khi ông Phó Thủ tướng ký, mới có "dự thảo" quy hoạch mà thôi! Thật kỳ lạ hay khôi hài?

Một vấn đề  trọng đại của đất nước, đã được nhắc đi nhắc lại từ 2007 rồi 2009, tức là sau 3-4 năm mà Quy hoạch vẫn sơ sài. Có lẽ một số cơ quan nhà nước, tiêu tiền của dân, nên nhìn lại công việc của mình, xem lại chất lượng nhân lực của chính mình.

Cho nên, chẳng hề lạ là nguồn nhân lực của chúng ta chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của đất nước. Có lẽ phải xem xét lại chất lượng "nguồn nhân lực" của chính các cơ quan lo phát triển nguồn nhân lực cho đất nước?

 

Mai Thanh Truyết

Viết theo sự chứng kiến của Người Trong Cuộc

West Covina, 05/20/2011

 

 

Thach Thuc TRong Phat Trien

 

Thách Thức Trong Phát Triển Việt Nam – Nghịch Lý Bắc Nam

 

 

Kể từ khi thống nhứt đất nước và sau hai kế hoạch ngũ niên, CS Việt Nam đã mang lại cho toàn dân Việt một đời sống bần cùng. Người dân từ Bắc chí Nam không còn đủ gạo để ăn mà phải ăn độn khoai, sắn, bo bo. Ngay cả người dân  ở ĐBSCL, vựa lúa lớn nhứt của cả nước vẫn thiếu ăn. Tât cả chỉ vì chính sách quản lý kinh tế ngăn sông cấm chợ và thuế khóa ngặt nghèo làm cho người dân không còn hứng thú để sản xuất.

Trước tình thế đó, CS Việt Nam bắt buộc phải mở cửa từ năm 1986 để tiếp nhận viện trợ và đầu tư ngoại quốc cùng chấm dứt chính sách ngăn sông cấm chợ cũng như nới lỏng chính sách thuế khóa. Sau đó, chỉ trong vòng 2 năm sau đó, nông dân Việt đã cân bằng được sản xuất lúa gạo và nạn thiếu lương thực đã được giải quyết tương đối ổn thỏa.

Với chính sách mở, sản phẩm quốc gia (GDP) tăng dần và kinh tế  bắt đầu tăng trưởng.

Nhưng sau 26 năm phát triển (2011), Việt Nam hiện đang trực diện trước một vấn nạn mới. Đó là tình trạng môi trường trên toàn quốc đang suy sụp trầm trọng và có nguy cơ không thể  giải quyết được. Tất cả điều do việc phát triển quốc gia hoàn toàn không có kế hoạch qua cung cách phát triển "tư bản chủ nghĩa theo định hướng xã hội chủ nghĩa", mà cho đến nay, chưa có ai trong chế độ có thể định nghĩa được cung cách phát triển trên như thế nào?

Phát triển quốc gia cần phải có một chính sách toàn diện:

·         Phát triển để làm tăng sản phẩm quốc gia;

·         Phát triển đồng thời cũng phải làm tăng phúc lợi cho người dân như đường xá, bịnh viện, trường học, cùng những nhu cầu tinh thần khác;

·         Phát triển cần phải chú trọng đến vấn đề xây dựng một nền tảng văn hóa dân tộc vững chắc, ý thức và trách nhiện của công dân ngõ hầu nêu cao tinh thần dân tộc tự chủ của toàn dân;

·          Và phát triển cần phải cân bằng với việc bảo vệ môi trường ứng hợp theo chiều hướng toàn cầu hóa.

Tình trạng môi trường ô nhiễm cùng khắp và xã hội băng hoại ngày hôm nay nói lên chính sách phát triển mất cân đối của CS VN trong suốt 26 năm qua.

Vì sao nên nỗi?

Tất cả chỉ vì một chính sách phát triển "cận thị" (shortsighted development) hay phát triển theo cung cách ăn xổi ở thì, một chính sách chỉ tính toán những con số lợi nhuận, bỏ qua tất cả những yếu tố cần thiết cho một sự phát triển đúng nghĩa như đã nêu ở phần trên.

Phần diễn giảng sau đây sẽ cho chúng ta hình dung được những vấn đề môi trường mà Việt Nam đang đối mặt. Đó là:

·         Tình trạng bất khà dụng của hầu hết các dòng sông từ Bắc chí Nam;

·         Nguồn không khí bị ô nhiễm vì khói bụi, và nhiều kim loại nặng như Chì (lead), Thủy ngân (Mercury), cùng các hợp chất hữu cơ như benzen trong xăng dầu, khí SO2 (sulfide oxid);

·         Nguồn nước sinh hoạt lần lần bị hạn chế và bị ô nhiễm;

·         Nông thủy sản, gia súc, và thực phẩm biến chế bị nhiễm độc vì phân bón quá tải, các loại hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm mốc, bảo quản thực phẩm, cùng các hóa chất phụ gia bị cấm xử dụng trong kỹ nghệ thực phẩm...  Điều nầy sẽ mang lại một tương lai đen tối là diện tích đất khai thác dần dần bị bất khiển dụng theo khuyến cáo của Quỹ Tiền tệ Thế giới (IMF).    

·         Tài nguyên quốc gia đang bị khai thác tối đa như việc phá rừng và tận dụng các khoáng sản nằm dưới đất...

 

Quan niệm về phát triển kinh tế ở thế kỷ 21

Đứng trước tiến trình toàn cầu hóa, trong đó, việc bảo vệ môi trường và việc giảm thiểu sự phát thải khí carbonic, nguyên tố chính trong sự hâm nóng toàn cầu, là ưu tiên hàng đầu trong mọi kế hoạch phát triển quốc gia. Chính vì vậy mà quan điểm mới của các quốc gia trên thế giới nhằm cổ súy việc khai thác "trên mặt đất" (above ground) thay vì khai thác "dưới mặt đất" (underground).

Giá thành của một sản phẩm không những chỉ tính bằng chi phí nguyên liệu, nhà máy, năng lượng xử dụng v.v…mà còn phải tính thêm chi phí cho việc giải quyết những những vấn nạn môi trường trong quá trình sản xuất ảnh hưởng lên không khí, nguồn đất và nước như khí thải, phế thải lỏng và rắn.

Vì vậy, tính trung bình một sản phẩm có giá thành là 1 Mỹ kim ở phần sản xuất cần phải tính thêm 0.50 Mỹ kim cho phần giải quyết các vấn nạn môi trường nữa. Ở các quốc gia đang phát triển như Trung Cộng hay Việt Nam, chính vì phần bảo vệ mội trường không được lưu tâm đến và giá nhân công rẽ cho nên sản phẩm được tung ra thị trường trên thế giới với giá rẽ mạt làm đão lộn cả thị trường trao đổi toàn cầu.

Do đó, tại các quốc gia đã phát triển, các khoáng chất nào gây nên nhiều phế thải và phí tổn cao cho việc bảo vệ môi trường không được các quốc gia trên chú ý đến mặc dù có trử lượng cao. Một thí dự điển hình trên thế giới cách đây vào tháng 10, 2010 là cuộc khủng hoảng "đất hiếm" trên thị trường thế giới. Hoa Kỳ có trữ lượng đất hiếm khoảng 30% so với trữ lượng toàn cầu mà chỉ khai thác và sản xuất 10% nhu cầu trong nước và nhập cảng 90% đất nầy qua các guốc gia sản xuất như Trung Cộng với giá rẽ mạt. Ngược lại TC chỉ có trữ lượng khoảng 15%, nhưng sản xuất 95% đất hiếm cho thế giới. Điều nầy đã làm cho Thủ tướng TC tự mãn, huênh hoang trong một Hội nghị quốc tế là "Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn…thế giới về mặt đất hiếm".

 

Những yếu tố phát triển Việt Nam

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng lên phát triển Việt Nam từ khách quan do các điều kiện thiên nhiên qua việc thay đổi khí hậu, và chủ quan do chính sách phát triển không có kế hoạch và không ứng hợp với việc bảo vệ môi trường và việc ứng hợp với chiều hướng toàn cầu hóa.

Mặc dù việt Nam đã phát triển hàng năm từ 6 đến 8% trong 10 năm qua, nhưng phần lớn sự tăng trưởng kinh tế trên là do các đầu tư ngoại quốc cùng việc khai thác nhân công rẽ mạt và việc tận dụng nguồn tài nguyên không thô như khoáng sản và dầu thô, không qua chế biến thành thành phẩm có giá trị cao.

Đứng về tiêu chuẩn phát triển trên thế giới ngày nay, một phát triển được xem là bền vững là sụ "phát triển trên mặt đất" (above the ground) chứ không phải "phát triển dưới đất" (below the grond) và xử dụng công nghiệ tiên tiến. Thành phẩm qua sản xuất cần phải kể đến giá thành sản xuất và 50% trị giá sản xuất cần phải dành cho việc bảo vệ môi trường.

Các điều kiện khách quan như:

·         Đất đai: Với trên 3.200 km bờ biển và đất đai chiếm diện tích 325.000 km2, diện tích khai thác đất đai đặt trọng tâm vào hai khu vực là châu thổ sông Hồng và Cửu Long. Các vùng đất có thể khai thác còn lại là những vùng đất xấu, diện tích nhỏ và điều kiện khí hậu khắc nghiệt…

·         Khí hậu: Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới, chịu ảnh hưởng của gió mùa.Vũ lượng tương đối cao từ 1.400 đến 2.200 mm, chỉ có vài vùng có vũ lượng kém dưới 600 mm mà thôi. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, và những tháng còn lại là mùa khô. Do thời tiết toàn cầu thay đổi và một số yếu tố chủ quan khác, trong những năm gần đây, hiện tượng hạn hán cũng như bão lụt xảy ra bất thường và nhiều khi có cường độ dữ dội hơn.

·         Trong vòng 100 năm qua, theo LHQ nhiệt độ trung bình ở Việt Nam tăng khoảng 0.10C cho mỗi thập niên. Trong vùng cao nguyên, nhiệt độ có thể tăng nhanh hơn từ 0.1 đến 0.30C. Do việc thay đổi nhiệt đô, lượng nước mưa cũng thay đổi theo và có tính cách bất thường, khó lượng định và tiên đoán trước để có thể hướng dẫn nông dân thay đổi kế hoạch trồng trọt.

·         Nạn giông bão cũng xảy ra thường xuyên hơn và không được tiên đoán trước như ở những năm 50 của thế kỷ trước. Lý do là có những ẩn số về sự thay đổi thời tiết quá đột ngột không nằm trong một khuôn mẫu để dự đoán (pattern) nào cả. Miến Bắc có khuynh hướng chịu nhiều tác động của bão trong những năm gần đây. Iền duyên hải bị thiệt hại vì giông bão nhiều nhứt cho con người, tài sản, nhà cửa, nâng sản và chăn nuôi.

·         Sau cùng, nước biển dâng cao, bào mòn mũi Cà Mau do hai nguyên nhân chính: - tác động của sự hâm nóng toàn cầu và việc khai thác rừng tràm và đước để nuôi tôm (sẽ nói ở phần nguyên nhân chủ quan.

Và các điều kiện chủ quan do con người có thể được đan kể sau đây:

1.    Đập thủy điện: Dòng Mékong chảy vào TC mang tên là Lancang (Lan Thương) trong đó có hai đập lớn là Xiaowan (4.200 MW) dự kiến sẽ hoàn tất vào năm 2013, Nuozhadu (5.850 MW) sẽ hoàn tất 2017. Chính hai nơi nầy sẽ là một đại họa không xa, vì phải mất hàng chục năm mới làm đầy hai hồ trên dài hàng trăm Km. Hiện tại TC có 3 đập  đang sử dụng là Manwan (1996) sản xuất 1.500MW, Dachaosan (2003) 1.350 MW, Gonguoqiao (2008) với 750 MW. Và vào mùa thu năm nay, đập Jinghong với 1.750 MW sẽ bắt đầu chuyển nước vào hồ chứa. Một nhánh sông khác chày vào địa phận Thái Lan có tên là Mae Nam Khong, cũng được ngăn chận làm hồ chứa nước cho cả vùng Bắc Thái, tưới tiêu một vùng nông nghiệp rộng lớn và biến Thái Lan trở thành nước đứng đầu về xuất cảng lúa gạo trên thế giới (Việt Nam chiếm hạng nhì). (tên Khong theo tiếng Sanskrit có nghĩa là Ganga, tức là sông Ganges bên Ấn Độ (Sông Hằng)). Lào là một quốc gia không có nhu cầu lớn về điện năng nhưng hiện đang nộp lên Ủy hội Mekong dự án xây một đập thủy điện Xayaburi ngay trên dòng chính của sông Mekong giữa biên giới TC và Cambodia. Và ngày 19/4 vừa qua (2011), dự án nầy đã được Ủy hội Mekong gồm Việt Nam, Cambodia, Thái Lan Lào (Mekong River Commission- MRC) cứu xét và đòng ý ngưng việc xây cât đập nầy do nguy cơ biến động sinh thái trong đó có nguy cơ tiệt chủng của loài cá tra khổng lồ chỉ còn độ trên dưới 100 con mà thôi.

2.    Việc phá rừng: Rừng là một thảm thực vật thiên nhiên lớn nhứt và hữu hiệu nhứt trong nhiệm vụ điều tiết dòng chảy của sông Mékong. Rừng qua rễ cây và lớp đất thịt bao phủ sẽ hấp thụ và giữ nước trong mùa mưa, và trong mùa khô sẽ điều tiết và cung cấp nước cho hạ nguồn để ngăn chặn nước mặn xâm nhập sâu vào ĐBSCL. Đây là một đặc ân của thiên nhiên.

 

 

Theo thống kê, trước Đệ nhị thế chiến, diện tích rừng nguyên sinh của Việt Nam chiếm 43% tổng diện tích, nhưng đến năm 1995, rừng chỉ còn lại 28%, nghĩa là mất trắng đi 55.000 Km2. Bắt đầu sau đó, với sự trợ giúp của Liên hiệp quốc, việc trồng rng mới được bắt đầu; tuy nhiên, tính đến năm 2005, tỷ lệ rừng tăng  lên đến 32%, trong đó những vùng trồng cao su, trà, cà phê…vẫn được tính toán trong việc "trồng rừng" để ViệtNam có thêm tài trợ do LHQ bảo trợ; do đó con số thực sự thật ra thấp hơn nhiều. Nhưng trên thực tế, việc phá rừng vẫn tiếp tục gia tăng với nồng dộ phi mã, tính đến năm 2005, rừng nguyên sinh (rừng già) ở Việt Nam chỉ còn 8%. Theo thống kê mới nhựt, rừng vùng Đắc Nông hầu như mất trắng do dự án khai thác bauxite ở Nhân Cơ.

 


            Rừng nghiến vườn quốc gia Ba Bể bị đốn hạ (2010)

Và con người tiếp tục phá rừng cho đến ngày nay, do đó, ngày hôm nay, ĐBSCL phải gánh chịu hậu quả là hàng năm nước mặn tiếp tục tiến sâu vào và làm thiệt hại hàng trăm ngàn mẫu lúa theo thống kê vào giữa tháng 4, 2011, mặc dù cao điểm của mùa khô là vào cuối tháng 5.

 

 

 

 

 

3.    Việc xây dựng đê bao: Xã hội chủ nghĩa của Việt Nam mang chính sách đê bao vào ứng dụng trong việc làm tăng diện tích trồng lúa, trong việc biến "sỏi đá thành cơm", cho nên người dân ĐBSCL phải gánh chịu hậu quả ngày hôm nay là lũ lụt xảy ra thường xuyên hơn và không có chu kỳ tương đối cố định như trước kia nữa. Nguyên do là khi dòng chảy từ Mékong xuống khi mùa nước bắt đầu lên cao ở Tân Châu và Châu Đốc, nước sông hoàn toàn di chuyển ra biển, đợi đến khi nước lớn hơn nữa mới bắt đầu làm đầy hai vùng Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười.

 

 

Nhưng hiện tại, hiện tượng nghịch lý đang xảy ra là, với đê bao, dòng nước của Sông Cửu Long chảy thẳng vào hai vùng trên ngay khi chưa tới mùa nước lớn để khai thác nông nghiệp; do đó, khi mùa nước lớn đến, một lượng nước khổng lồ sẽ chảy vào hai vùng đã ngập nước từ trước. Hiện tượng ngập lụt xảy ra là vì thế.

 

Việc xây dựng đê bao để chuyển vận nguồn nước cho nông nghiệp hoặc chống lụt là một công trình nghiên cứu quan trọng, cần phải mất nhiều năm để tính toán lưu lượng nước cần phải chuyển hướng, đâu phải có thể do quyết định của lãnh đạo địa phương ra lịnh đấp đê chung quanh địa phận xã để tránh ngập lụt và, dĩ nhiên hậu quả tất yếu là các xã chung quanh phải gánh chịu.

 

Theo những tin tức mới nhứt vào mùa khô nầy (4/2010) một số vùng miền Bắc tỉnh Hậu Giang, vì vấn nạn đê bao, nguồn nước không thể thông thương vào được. Do đó, một số hệ lụy đang xảy ra cho vùng nầy từ mấy năm nay như:

 

Vì không có sự luân lưu của nguồn nước cho nên đất ngày càng chai mòn vì dư lượng của phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và nhứt là phù sa không vào được hàng năm như trước kia, vì vậy năng suất lúa không còn như xưa nữa.

Đê bao hạn chế nguồn nước, cho nên nhiều nơi nông dân chỉ trồng lúa cho gia đình, phần thời vụ còn lại thì phải trồng hoa màu để kiếm sống.

Thời gian thiếu nước kéo dài ra, do đó thu nhập của nông dân ngày càng giảm sút.

 

Tóm lại, vấn đề đê bao ở vùng ĐBSCL cần phải nghiên cứu lại như một số đề nghị của các chuyên gia nông nghiệp và thổ nhưỡng hiện đang làm việc ở hai Đại học Hậu Giang và Cần Thơ.

 

4.    Rừng ngập mặn: Tại vùng ĐBSCL, rừng ngập mặn chiếm khoảng 300.000 Km2 bao gồm các tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Cần Giờ. Nhưng sau 15 năm khai thác việc nuôi tôm, diện tích rừng hiện nay chỉ còn khoảng 200.000 Km2, và phần diện tích mất đi đều bị bỏ hoang vì vùng đất nầy bị ô nhiễm sau vài mùa tôm. Chỉ tính riêng cho vùng Cà Mau, trưo17c 1975, rừng ngập mặn chiếm độ 200.000 Km2, mà nay, chỉ còn độ 70.000 mà thôi.

 

Nhiệm vụ của rừng ngập mặn rất quan trọng, vừa ngăn chặn sóng gió, vừa là vùng trú ẩn và sinh sản cho tôm cá trong thiên nhiên, và cũng một vùng đệm (buffer) để hạn chế việc nhiễm phèn sulphate và giảm thiểu việc ngập mặn trong mùa khô. Các nhiệm vụ bảo vệ ĐBSCL đã mất đi, do đó, nguy cơ làm cho vựa lúa của một vùng rộng lớn ngày càng giảm vừa diện tích, và vừa năng suất.

 

Nhà cầm quyền Việt Nam đã nhận nhiều tài trợ của Ngân hàng Thế giới để trồng rừng. Nhưng vì những khó khăn trong việc nầy là do các vùng đất bị bỏ hoang không khai thác nữa đã có chủ hay được cho thuê hàng 50 năm, vì vậy không thể thực hiện lại việc trồng rừng. Một hiện tượng tiêu cực khác nữa là do ý thức của người dân vì không được giải thích tầm quan trọng của sự hiện diện và hữu ích của rừng ngập mặn cho nên nhiều nơi đã được trồng lại nhưng sau đó lại bị phá đi… Một yếu tố không nhỏ nữa là do quản lý yếu kém, hiện tượng tham những và ăn chận tiền viện trợ. Chính những điều trên khiến cho việc tái tạo rừng ngập mặn trở thành khó khăn hơn và không thể nào thực hiện được trên thực tế.

 

5.    Mức gia tăng dân số: Vì điều kiện sinh sống, dân chúng di dân vào những vùng có thể mưu sinh được như các thành phố lớn, các vùng nông nghiệp tương đối còn thưa dân như tình trạng ở ngoài BẮc di dân vào Nam. Thêm nữa, nạn gia tăng dân số làm cho diện tích đất khai thác ngày càng bị thu hẹp, đặc biệt cho hai vùng châu thổ sông Hồng và Cửu Long. Đất đai ngày càng bị tận dụng, cho nên năng suất giảm dần, thu nhập người dân giảm làm cho đời sống khó khăn thêm…khiến cho người dân lại phải tha hương cầu thực nữa.

 

6.    Phát triển không đồng bộ về phân vùng: Phát triển công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, còn đại đa số vùng nông thôn và vùng xa rất chậm phát triển hay hoàn toàn không phát triển, bỏ mặc cho địa phương định đoạt kế hoạch và chính sách trong vùng. Thành thử xảy ra nhiều vấn nạn phát triển vì thiếu nghiên cứu tác động môi trường, không tuân thủ phương hướng phát triển bền vững dựa theo tài nguyên, nguyên liệu địa phương. Một thí dụ cụ thể là nhà máy giấy Hậu Giang có công suất dự trù sản xuất hàng nửa triệu tấn bột giấy, nhưng lại xây dựng ở một nơi không có nguey6n liệu. Một thí dụ khác là, hàng chục nhà máy đường xây dựng từ Bắc chí Nam, tiêu tốn hàng tỷ Mỹ kim…đành phải ngưng hoạt động vì không đủ mía để làm đường!

 

7.    Phát triển không đồng bộ về kế hoạch tổng thể: Vì nhu cầu cần có ngoại tệ nặng cho nên Việt Nam đặt trọng tâm vào vệc phát triển tối đa lúa gạo, cà phê, tôm cá mà quên đi những nông phẩm phụ cho nhu cầu hàng ngày của người dân. Tệ hơn nữa, những nhu cầu thực phẩm khác ngoài lúa gạo không được khuyến khích, cho nên phải nhập cảng từ phương Bắc, ngay cả những vật dụng thông thường như văn phòng phẩm, viết chì, viết mực, bao thơ…cũng phải nhập từ bên Tàu qua. Về hàng nông sản khác như cà rốt, cải bắp đã nhập trong 10 tháng đấu năm 2010 trên 21 ngàn tấn, giết chết vùng Đà Lạt, trung tâm trông các loại nầy ngày xưa, cung cấp cho phân nửa nước nhờ có khí hậu ôn đới. Ngay cả hành lá cũng nhập gần 8 ngàn tấn. Thậm chí tăm xỉa răng cũng phải nhập 1.200 tấn từ Trung Cộng.

 

Từ những nhận định tổng quát trên, nếu chuyển tầm nhìn qua khía cạnh Bắc Nam, chúng ta sẽ còn thấy thêm nhiều điều nghịch lý khó có thể chấp nhận được nếu xét nghiệm về cà hai phương diện lý và tình. Đó là:

 

 

Nghịch lý trong phát triển Bắc – Nam

Từ khi có chính sách đổi mới năm 1986 trở đi, Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc phát triển kinh tế toàn quốc. Nhưng khi soi rọi vào công cuộc phát triển chung của cả nước, chúng ta thấy có nhiều điều không ổn trong việc đầu tư, phân phối nguồn vốn phát triển cho các vùng đặc biệt là những vùng ở miền Bắc và Nam Việt Nam. Những điều không ổn trên lại đưa ra thêm nhiều nghịch lý, khi các số thống kê về lợi tức, và khả năng thu hoạch lại đi theo chiều nghịch với số vốn đầu tư ban đầu.

Từ đâu nảy sinh ra những nghịch lý trên?

Phát triển ở ngoại ô Hà Nội

Trước hết, có thể nói Hà Nội và các tỉnh phụ cận là một trung tâm kinh tế và quyền lực, có những hải cảng quan trọng ở gần như Hải Phòng, và các tỉnh có tầm vóc kinh tế như Quảng Ninh, Hải Dương, Hà Tây, Vĩnh Phúc. Đối lại, ở phiá Nam có thành phố Saì Gòn và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Bà Riạ.

 

Hai vùng vừa kể trên là hai vùng đứng về mặt địa lý và chính trị có thể được xem như là hai đối trọng Bắc Nam để so sánh về phát triển. Vào năm 2002, Hà Nội và các tỉnh kể tên có 10 triệu cư dân, tăng 2.6% so với năm 1999; trong lúc đó thành phố Sài Gòn và các tỉnh lân cận trong thời điểm nầy có 5.1 triệu cư dân, tăng 5.4%  so với năm 1999.

Theo Thời Báo Kinh Tế Việt Nam số 4/2004 qua bài viết "Kim ngạch xuất cảng của các tỉnh năm 2003", kim ngạch xuất cảng trung bình tính theo đầu người ở phía Bắc (gồm Hà Nội và các tỉnh lân cận trên) là $50.00/năm và ở phía Nam (Saì Gòn và các tỉnh chung quanh) là $785.00/năm. Hay nếu tính bằng kim ngạch xuất cảng, trong năm 2003, phía Nam đạt được 4 tỷ Mỹ kim, không tính đến dầu khí. Còn phía Bắc cũng trong thơì gian nầy chỉ thu được $0.50 tỷ tính luôn cả than đá.

Nhìn chung, phía Bắc có nhiều ưu tiên về địa lý, chính trị, và được đặt ưu tiên phát triển hàng đầu về hạ tầng cơ sở như đường xá, cầu cống, chiếm ưu thế trong xây dựng so với phía Nam. Thêm nữa, mọi ưu đãi về thủ tục hành chánh, cũng như quy hoạch đều đứng trên và trước so với phía Nam. Phía Bắc có tất cả những ưu điểm và ưu thế mà vẫn không phát triển được. Như vậy là có vấn đề. Và vấn đề trước mắt là phải kể đến con người và não trạng của cấp điều hành kinh tế phía Bắc.  Chúng tôi xin đan cử lần lược ba khía cạnh khác nhau của hai miền Bắc và Nam. Đó là yếu tố nhân sự, trình độ chuyên môn, và chính sách phát triển.

  • Yếu tố nhân sự: Nhìn tổng quát và so sánh phát triển của cả hai phía Bắc Nam, hầu hết mọi người đều nhận thức rõ nét rằng: Miền Bắc đã "hấp thụ" chủ nghĩa xã hội từ năm 1945 và miền Nam từ năm 1975. Ba mươi năm sai biệt đã tạo cho người dân sống ở miền Bắc nhiều quán tính ảnh hưởng đến cung cách làm kinh tế và phát triển khác hơn so với phía Nam.

 

 

 

 

 

   

                                  

Saigon Financial Tower as of 24 Jan, 2010 with M&C Tower in the front

Phía Bắc, trong 65 năm qua đã "lào thông" qua hệ thống kinh tế tập trung thể hiện qua các hợp tác xã, công ty quốc doanh. Do đó, cung cách tiếp cận với kinh tế thị trường tự do, vốn đã quá quen thuộc trong cung cách làm ăn ở phía Nam, vẫn còn lúng túng và gây thêm phiền toái trong thủ tục nhất là khi giao tiếp với những nhà đầu tư ngoại quốc. Từ đó, các nhà đầu tư nội địa cũng như ngoại quốc vẫn còn e ngại không muốn làm ăn với các tỉnh phía Bắc.

Thêm nữa, quán tính thụ động "Xin – Cho – Chờ" của cấp thừa hành và lãnh đạo kỹ thuật kinh tế đã làm thui chột mọi sáng kiến cải cách kỹ thuật vì sợ sệt cấp trên. Tất cả đều mang tâm trạng thụ động, chỉ chờ lãnh đạo cấp cao nhất ra chỉ thị. Từ cán bộ cho đến công nhân viên đều mang tâm khảm trên, cho nên bộ máy hành chánh ngày càng nặng nề hơn nhưng hoạt động không hữu hiệu, và chắc chắn sẽ là một cản lực lớn cho việc phát triển kinh tế. Với cung cách hành xử như thế, làm thế nào các nhà đầu tư nội địa và ngoại quốc có can đảm ghé mắt vào.

  • Yếu tố trình độ chuyên môn: Từ hệ quả qua sự chậm phát triển, nhân sự chuyên môn ở phía Bắc bắt buộc phải di chuyển vào phía Nam để xây dựng tương lai, do đó chúng ta có thể hiểu được dân số trong vùng phía Nam tăng nhanh hơn phía Bắc trong cùng khoảng thời gian (5.4% so với 2.6%) mặc dù dân số ở vùng nầy cao gấp 2 lần dân số sống ở phía Nam. Đây có thể được xem như là một sự "xuất não" nội địa. Sự kiện nầy giải thích được tại sao lực lượng lao động ở phía Nam tăng lên 479,000 lao động từ năm 2000 đến 2003, so với phía Bắc là 264,000.

Việc di dân vào phía Nam, quả thật là một việc hiển nhiên. Người lao động, cũng như những nhân sự chuyên môn phải tìm đến những môi trường có điều kiện làm việc nhiều hơn, dễ dãi hơn, thông thoáng hơn, và có một đời sống kinh tế dồi dào hơn. Đó là các tỉnh phía Nam.

Hơn nữa, phía Nam, dù đã chịu 35 năm dưới sự quản lý của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghiã, nhưng vẫn còn mang nặng những "vấn vương" còn lại trong thời kinh tế thị trường trước kia. Đây là những điểm thuận lợi nhất để giải thích lý do phát triển kinh tế mạnh mẽ ở phía Nam. Vì có đầu óc cởi mở, dễ tiếp cận với doanh thương ngoại quốc, cung cách ứng xử có tính cách chuyên môn và chuyên nghiệp, những rào cản qua thủ tục hành chánh tương đối giản dị hơn phía Bắc, cho nên các tư nhân lớn và ngoại quốc dễ dàng đầu tư vào vùng nầy.

Trong lúc đó, vì còn nhiều quán tính thụ động, cán bộ quản lý phía Bắc thích điều hành doanh nghiệp nhà nước hơn vì không cần động não để đẩy mạnh sản xuất, hay tăng cường phúc lợi cho cơ sở. Lời hay lỗ đều có "nhà nước" lo. Và điều hành doanh nghiệp quốc doanh hoàn toàn không có ý thức trách nhiệm là mong tìm lợi nhuận tối đa cho cơ sở. Đó là lý do tại sao hầu hết các quốc doanh Việt Nam điều phải được bù lỗ hoặc bị phá sản.

  • Yếu tố Chính sách phát triển: Chúng ta có thể xét qua chính sách đầu tư của Việt Nam. Đứng về phương diện đầu tư, luật doanh nghiệp đã ra đời từ năm 2000, trong đó ghi rõ điều kiện xin giấy phép hoạt động tương đối có bài bản, quy cũ hơn trước. Do đó, số doanh nghiệp tư nhân xin gia nhập tăng lên rất nhiều. Năm 2006 có vào khoảng trên 70,000 doanh nghiệp xin giấy phép hoạt động. Đó là phần do tư nhân, cũng như tư nhân hợp tác với nhà nước theo thể thức liên doanh. Nhưng đó chỉ là những thủ tục trên giấy tờ. Trên thực tế, vẫn còn phảng phất doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp quốc doanh dưới dạng tư nhân.

Một số tỉnh ở phía Bắc có khuynh hướng dễ được chấp thuận khi xin giấy phép hoạt động của những doanh nghiệp tư nhân nhưng có "liên hệ" tốt với chính quyền, hoặc những nhân sự có quyền lực của chế độ. Từ đó, hệ quả từ các liên hệ trên là, dù cùng là doanh nghiệp tư nhân cả, nhưng những doanh nghiệp tư nhân nào không có liên hệ "tốt" sẽ khó tranh dành được các ưu đãi của cơ quan quản lý địa phương. Và điều nầy đã biến một số doanh nghiệp tư nhân trở thành một hình thức quốc doanh mà thôi. Sự kiện trên đã xảy ra rất nhiều nơi ở miền Bắc. Dĩ nhiên là phát triển trong điều kiện trên phải bị trì trệ nếu không nói là thụt lùi so với phía Nam.

Quang cảnh sau hơn 2 năm khởi công dự án Khu du lịch sinh thái và vui chơi giải trí Tuần Châu Hà Tây (trong đó có gần 100ha đất dành làm sân golf). Những tấm pano quảng cáo dự án cũng đã bị mưa gió, con người xé rách. Bên trong hàng rào lớp tôn là cây cối, cỏ dại mọc um tùm do để hoang hơn 2 năm. Trong khi người dân thì không có ruộng mà cấy.  Ảnh: D.T

Tóm lại, qua các phân tích trên, chúng ta nhận thấy rằng các tỉnh phía Bắc, chung quanh Hà Nội, có đủ tất cả điều kiện cần thiết để đẩy mạnh phát triển kinh tế hơn các tỉnh phía Nam và chung quanh Sài Gòn. Các điều kiện gồm cả thiên thời, địa lợi, và nhân hòa:

  • Thiên thời là do Việt Nam đang ở vào thời điểm toàn cầu hóa và thế giới Tây Phương rất muốn và đang trợ giúp Việt Nam có ổn định về an ninh để làm đối trọng cho các bành trướng đế quốc phương Bắc.
  • Địa lợi là do địa thế và nhu cầu của người dân ở vùng nầy thuận lợi hơn cho tiến trình phát triển kinh tế vì nhu cầu của người dân sống nơi đây lớn hơn nhiều so với người dân sông ở phía Nam.
  • Và ưu điểm cao nhất là nhân hòa, vùng phía Bắc được cả một tập thể lãnh đạo Việt Nam tiếp sức, hà hơi, và triệt để ủng hộ trong cả chính sách, nhân sự, và ưu tiên đầu tư ... so với phía Nam.

Nhưng ba thuận lợi trên không đem lại ưu thế về phát triển kinh tế cho phía Bắc, mà là một sự phát triển thụt lùi so với phía Nam. Chính yếu tố nhân hòa đã làm tiêu diệt tính cạnh tranh về phát triển kinh tế, một đặc tính người Việt ở miền Bắc có ưu điểm cao hơn nhiều so với người miền Nam trước đây trong lãnh vực thương mãi.

Nghịch lý trong phát triển giữa phía Bắc và phía Nam ít ra cũng nêu lên được một số bế tắc của lãnh đạo Việt Nam trong lãnh vực phát triển quốc gia. Ngày nào các nghịch lý nầy còn tồn tại, niềm hy vọng cho kinh tế Việt Nam cất cánh thành Rồng Đông Nam Á vẫn còn xa vời vợi và con tàu Vinashin vươn ra biển khơi chỉ là ảo tưởng. 

Kết luận

Cho đến hôm nay, mặc dù tăng trưởng vẫn đều đặn qua đầu tư ngoại quốc, nhưng Việt Nam thể hiện trong những tháng gần đây nhứt là vào tháng 4 và tháng 5, 2011, nạn lạm phát gia tăng vùn vụt trên dưới 20%. Thưc phẩm tăng. Xăng dầu tăng nhiều lần trong một thời gian ngắn. Điện nưóc cũng tăng phi mã. Tất cả khiến cho người dân vốn nghèo cáng nghèo hơn. Tỉnh Thanh Hóa chiện có trên 260.000 dân đang BỊ ĐÓI.

Chỉ số phát triển người dân (human development index) năm 2010 do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UN Development Program) xếp hạng Việt Nam thứ 113 trên 169 quốc gia. Ngân hàng Thế giới đánh giá sự phát triển không đồng bộ của Việt Nam tạo ra những vùng nghèo đói, không được hưởng phúc lợi do phát triển như vùng nông thôn và vùng cao nguyên. Và Quỹ tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund) nhận định rằng Việt Nam sẽ khốn đốn trong giai đoạn ảnh hưởng của sự suy thoái toàn cầu kéo theo sự suy sụp của cán cân thương mại, đầu tư, và phát triển đình trệ.

Theo 2010 Economic Freedom Index, Việt Nam có chỉ số 51.6 đứng hạng thứ 139 trên 181 quốc gia, và đứng hạng 30 trên 40 quốc gia vùng Á châu Thái Bình Dương; trong lúc đó chỉ số của Hong Kong là 89.7, Taiwan, 70.8, và Thái Lan, 64.7. Từ những chỉ số trên cho thấy, Việt Nam là một quốc gia phát triển chậm, mặc dù Việt Nam cần nhiều sản phẩm cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày của 89 triệu người dân trong nước.

Hiện tại, do chính sách độc đảng cho nên tất cả cơ sở vật chất, tài nguyên, nguồn vốn đều tập trung vào Đảng và các thân thuộc của đảng, tức một thiểu số nhỏ so với đại đa số dân tộc. Vì vậy, tầng lớp trung lưu khó phát triển hay phát triển chậm. Ở các quốc gia đã phát triển ổn định, chính tầng lớp trung lưu sẽ giúp cho quốc gia qua được những cơn suy thoái toàn cầu hay suy thoái vùng. Nhưng ở Việt Nam, tầng lớp trên chiếm tỷ lệ quá nhỏ, do đó, khó có thể làm đối trọng với các tập đoàn kinh tế của "nhà nước" tức là của đảng vốn được tất cả những đặt quyền đặt lợi trong phát triền.

Khi gia nhập vào Tổ chức Thương mãi Quốc tế (WTO) năm 2007, Việt Nam hứa sẽ đẩy mạnh việc giải thể quốc doanh hầu tăng nhanh tiến trình tư nhân hóa trong phát triển. Nhưng cho đến nay, lại có thêm nhiều Tập đoàn gồm nhiều Đại công ty quốc doanh hợp lại; cho nên vì thiếu khả năng quản lý và vì nhiều lý do khác trong đó tham nhũng là một lý do chính yếu khiến cho sự phá sản của đất nước ngày càng xảy ra nhanh hơn trong hiện tại.

Tóm lại, những vấn nạn trong phát triển của Việt Nam thay vì giảm dần qua học hỏi và kinh nghiệm, trái lại Việt Nam ngày càng lún sâu vào chính những sai lầm trong phát triển do chính mình gây ra, cộng thêm não trạng chia rẽ giữa hai miền Bắc và Nam khiến cho Đất và Nước khó có cơ may sánh vai ngang hàng cùng thế giới.

Trừ phi có phép lạ xảy ra cho dân tộc!

Mai Thanh Tuyết

Viết cho Nghị hội Người Việt Toàn quốc năm 2011 tại Dallas

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quang cảnh sau hơn 2 năm khởi công dự án Khu du lịch sinh thái và vui chơi giải trí Tuần Châu Hà Tây (trong đó có gần 100ha đất dành làm sân golf). Những tấm pano quảng cáo dự án cũng đã bị mưa gió, con người xé rách. Bên trong hàng rào lớp tôn là cây cối, cỏ dại mọc um tùm do để hoang hơn 2 năm. Trong khi người dân thì không có ruộng mà cấy.  Ảnh:  

 

 

 

 

 

 

 

//////////////////////////////////////////////////